Trong giáo lý nhà Phật
gồm có thiên kinh vạn quyển. Trong tam tạng kinh điển gồm có: Kinh - Luật - Luận tạng. Trong tam tạng ấy đều liên
hệ với nhau. Mục đích Phật pháp hướng con người ta tu tập thấu rõ nguồn tâm
trong sáng của mình, an tâm mình,
và biết làm lành, lánh dữ, góp phần an sinh xã hội.
Trong kinh tạng Pali, Tiểu Bộ
Kinh gồm có 15 quyển, Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là quyển thứ 15, gồm 26 phẩm, tương đương 423 câu kệ,
là những lời Phật dạy, ngắn gọn, dễ hiểu, có giá trị, thiết
thực cho cuộc sống. Người xuất gia, cũng như Phật tử tại gia có thể ứng dụng
sống, tu có an lạc, như bóng
không dời hình. Để hiểu đôi điều về lời Phật dạy, tôi xin tìm hiểu vài nét về “Không
phóng dật”, ấy là lợi ích quan trọng.
Phật tử nhất tâm nghe giảng về Không Phóng Dật
Không Phóng Dật là phẩm
thứ 2 trong Kinh Pháp Cú. Theo chữ Hán thì “phóng”[1] có
nghĩa là phóng túng, không cẩn thận, xao lãng. Xao lãng có nghĩa là sao nhãng,
tức là: “không để tâm, tập trung vào công việc chính”[2]. Dật[3] có
nghĩa là “lầm lỗi”. Vậy thì “ phóng
dật” nghĩa là phóng túng tâm ý, buông thả, hành động của mình theo sự lầm lỗi.
Vậy Không Phóng Dật nguyên gốc Pali nghĩa là sao? Appamada[4] nghĩa
là không xao lãng, không phóng dật và cũng có thể dễ hiểu là “cẩn thận”. Đại ý
của Phẩm Không Phóng Dật gồm những câu khuyến thiện, nhắc nhở làm việc lành, tạo
nghiệp lành, luôn giữ tâm ghi nhớ mình, cẩn thận, thường (chính niệm) biết rõ
mình đang làm việc gì.
Vậy, câu kệ 21 trong Phẩm Không Phóng Dật
viết rằng:
“Không phóng dật, đường sống
Phóng dật là đường chết
Không phóng dật, không chết
Phóng dật như chết rồi[5]
Trước hết, Phật xác quyết chỉ ra hai con đường, một
con đường không phóng dật thì được tồn tại, sống không chết. Con đường thứ
hai, là con đường phóng dật dẫn tới khổ đau, phiền não, tới chết. Ví như người
say rượu, đêm ngày không biết được mình tỉnh hay mê, chửi cha mắng mẹ, đánh vợ,
hành con tới khổ. Người không
phóng dật, trú tâm của mình
vào việc “biết rõ” mình đang làm, đang suy nghĩ, đang nói, ta làm chủ
được bản thân, bản tâm, giữ gìn được
giới luật, tu tập được tinh tiến, cuộc sống yên ổn an lạc.
Tư tưởng chủ đạo của
đạo Phật là hướng con người ta quyết tu tập, đạt cho được tâm không phóng dật (an định), có cuộc sống an
lành, hạnh phúc, xã hội ổn định phồn vinh. Còn người sống phóng dật, buông
lung, tâm điên đảo dẫn đến làm những việc hại mình, hại người. Trượt dài trên u
minh tăm tối, vào chốn lầm mê từ lúc nào không hay biết. Đây chính là những mặt
trái của xã hội, mà nhìn vào đấy ta thấy bất cứ là ai, ở đâu, trình độ học vấn
cao đến đâu đi chăng nữa, mà để tâm mình phóng dật thì không thể tìm thấy ánh
sáng Phật pháp mà tu tập, sống không lập trường, nghiêng ngả, kém phúc tuệ nên tâm
phóng dật là ta tự hại chính ta và chết dần từ lúc nào mà ta không hay biết. Sống thực dụng xa rời truyền thống văn
hóa xã hội, suy thoái đạo đức, lệch lạc tư tưởng chính trị, bàng quang trước xã
hội. Bởi thế cho nên những người
cẩn thận, giác ngộ trí tuệ thấy được lợi ích của lời Phật dạy, họ sẽ định hướng
được tâm cùa mình. Nên Kệ 22 phẩm
Không Phóng Dật viết:
“Biết rõ sai biệt ấy
Người trí không phóng dật
Hoan hỷ không phóng dật
An vui hạnh bậc thánh”[6]
Khi con người tâm không phóng dật trí tuệ
minh mẫn, giúp cho mỗi người chúng ta luôn phải trăn trở sống làm sao cho ích đạo
, lợi đời, sống nhân ái, sẻ chia, sống có trách nhiệm. Tự tâm chúng ta quyết tu
tập đạo pháp tìm về chính giác, giúp cho con người có cuộc sống an lành, gia
đình hạnh phúc, xã hội ổn định phát triển phồn vinh. Nên người có tâm không
phóng dật thường là người đã giác ngộ được tư tưởng giáo lý Phật pháp. Họ kiểm
soát được hành động, suy nghĩ của bản thân, điều chỉnh được tâm trí, làm việc
lành, lánh việc dữ nên cuộc sống luôn hoan hỷ, an vui.
Kệ 23 viết: “Người hằng
tu thiền định
Thường kiên trì
tinh tiến
Bậc trí hưởng
Niết Bàn
Đạt an tịnh vô
thượng”[7]
Kệ trên Phật nhắc cho chúng ta biết, vấn đề
Thiền Định là để khai tâm, trí sáng, giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Người tu thiền
định thường xuyên, tức để tâm ý vào một việc chung nhất, hay một đối tượng,
theo dõi theo nó theo lý Duyên sinh, cái này có là do đủ duyên, khi kém duyên
thì nó thành cái khác, thực thể bản chất của việc, đối tượng ấy là thanh tịnh,
vô ngã. Quán chiếu trong Thiền định như thế dẫn tới tâm trí sáng, làm chủ được
thân tâm không chạy theo vô thức, phóng túng theo trần cảnh mê lầm. Người thường
tu Thiền Định, bền chí, tinh tiến thì sẽ đạt được cảnh giới Niết Bàn, an tịnh
vô thượng ( trạng thái yên tĩnh tột cùng).
Lớp giáo lý nâng cao của thủ đô Hà Nội đang cẩn thận trú tâm nghe Kinh Pháp Cú
Người có tâm không phóng dật, thì bất cứ ở
đâu, lúc nào tâm cũng tĩnh, ung dung tự tại, luôn luôn giữ gìn giới luật, quyết
tâm tu tập tự giác, sống nhân ái sẻ chia, không bao giờ sống buông lung, mà khi
chúng ta giác ngộ được ánh sáng đạo pháp mới thấy sự màu nhiệm của Phật pháp là
vô biên, giúp chúng sinh thoát chốn mê lầm, đón nhận niềm an vui, cực lạc.
“Chúng ngu si thiếu trí
Chuyên sống đời
phóng dật
Người trí không
phóng dật
Như giữ tài sản
quý”[8]
Trong một thế giới phẳng đầy những cạm bẫy,
cạnh tranh, mọi người bị cuốn vào nhịp sống hối hả, thì hơn lúc nào hết những lời
Phật dạy cảnh tỉnh, giúp ích rất nhiều cho mỗi người chúng ta. Lời Phật dạy chỉ
ra cho chúng sinh những lợi ích lớn lao của việc tu tập theo Phật pháp. Vì chỉ
tu tập tinh tiến ta mới giữ được tâm mình trong sáng sống đẹp, sống có ích cho
xã hội, biết sẻ chia quan tâm đến cộng đồng. nên người có tâm không phóng dật
là đã giác ngộ đi theo con đường Phật pháp, còn người có suy nghĩ mông lung có
tâm phóng dật thì sớm muộn bị ba nghiệp tham, sân, si ngự trị trong hành động
và suy nghĩ nó làm cho con người suy thoái đạo đức lối sống, vi phạm pháp luật,
vướng vào lao lý. Nên chỉ có kẻ ngu mới sống phóng dật, người giác ngộ giữ được
tâm không phóng dật, luôn tự giác học tập tu dưỡng, rèn cho bản thân có tâm trí
sáng, hoài bão lớn sẵn sàng cống hiến cho đạo pháp, và dân tộc. Ở đây ta thấy ý
nghĩa: “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” trong Kinh điển của Phật giáo Đại
thừa, tất cả đều do chúng sinh khởi từ tâm, tâm không phóng dật thì nhân lành nảy
nở nghiệp dữ tiêu trừ, còn tâm phóng dật thì nghiệp dữ tăng trưởng, khổ não triền
miên.
Tóm lại, Không Phóng Dật là lời Diệu Pháp,
là nấc thang cơ bản, ban đầu để hướng con người định được tâm, nhờ định tâm mà
biết được, cuộc đời, vạn vật, hiện tượng, con người đều do nhân duyên hòa hợp
và thành, mà tán, hiểu được các nhân duyên gá hợp vào nhau mà có mặt, mà chuyển
hóa. Người có tu tâm, quán tính thì thấy được Không Phóng Dật là quan trọng, cần
nhận biết nó, cần theo dõi hướng nó nên làm thế này mà không nên làm thế kia
theo tâm chỉ đạo đúng hướng có lý, lợi cho bản thân và xã hội. Với ai không
phóng dật sẽ cứu ta thoát khỏi khổ đau, có được an lạc hạnh phúc dù bất cứ nơi
nào. Để tạm kết cho phần nghiên cứu này ta có thể mượn mấy câu thơ của Hồ Chí
Minh viết nhắc nhở Thanh Niên cần để tâm nhận thức rõ ràng, cẩn thận, biết thì
nói rằng biết, không biết nói là không biết, việc gì khó cũng có thể làm được
chỉ cần giữ gìn bền tâm, “ quyết chí”. Quyết chí là quyết tâm cẩn thận, không
phóng túng, bền chí trong công việc sẽ thành công, không có gì khó khăn. Vậy
nên, Bác Hồ đã làm bài thơ:
“ Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm lên”[9]
Có thể nói, nếu như toàn bộ Kinh Pháp Cú, hòa thượng Thích
Minh Châu dịch theo lối câu kệ 5 chữ, thì những câu thơ của Bác Hồ cũng theo lối
thơ câu kệ 5 chữ, ta thấy câu thơ hay, vần điệu, ngắn gọn chứa đựng truyền tải
được nội dung dù gian nan khó khăn thế nào, nhưng có tâm bền vững, không phóng
dật, quyết chí làm việc gì cũng ắt thành công./.
[1] Thiều Chửu,Hán ViệtTừ Điển, Nxb Văn
hóa thông tin, tr.229
[2]Trung
tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam,
Nguyễn Như Ý chủ biên, Đại từ
điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – thông tin, tr. 1430
[3] Thiều Chửu, Hán ViệtTừ Điển, Nxb Văn hóa
thông tin, tr.612
[4] Tỷ khiêu Đức Hiền biên soạn, (2009), Kinh Pháp Cú (phân tích từ ngữ
Pali), Nxb Tôn giáo, tr.38 -
39
[5] Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh tập 1 và 2, Kinh Pháp
Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33
[6] Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh
tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33
[7] Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh
tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33
[8]Thích
Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ
Kinh tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb
Hồng Đức, tr.33
[9] http://www.bqllang.gov.vn/ bai tho cua Bac Ho can dan thanh nien
ra doi nhu the nao