Phật Học Online

Không Phóng Dật trong Kinh Pháp Cú
Đồng tác giả: Thích Quảng Hợp Diệu Trinh

 Trong kinh tạng Pali, Tiểu Bộ Kinh gồm  15 quyển, Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là quyển thứ 15, gồm 26 phẩm, tương đương 423 câu kệ, là những lời Phật dạy, ngắn gọn, dễ hiểu, có giá trị, thiết thực cho cuộc sống. Để hiểu đôi điều về lời Phật dạy, tôi xin tìm hiểu vài nét về “Không phóng dật”, ấy là lợi ích quan trọng.
Khung cảnh lớp giáo lý nâng cao của Phật tử thủ đô Hà Nội


Trong giáo lý nhà Phật gồm có thiên kinh vạn quyển. Trong tam tạng kinh điển gồm có: Kinh - Luật  Luận tạng. Trong tam tạng ấy đều liên hệ với nhau. Mục đích Phật pháp hướng con người ta tu tập thấu rõ nguồn tâm trong sáng của mình, an tâm mình, và biết làm lành, lánh dữ, góp phần an sinh xã hội. Trong kinh tạng Pali, Tiểu Bộ Kinh gồm  15 quyển, Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là quyển thứ 15, gồm 26 phẩm, tương đương 423 câu kệ, là những lời Phật dạy, ngắn gọn, dễ hiểu, có giá trị, thiết thực cho cuộc sống.  Người xuất gia, cũng như Phật tử tại gia có thể ứng dụng sống, tu có an lạc, như bóng không dời hình. Để hiểu đôi điều về lời Phật dạy, tôi xin tìm hiểu vài nét về “Không phóng dật”, ấy là lợi ích quan trọng.

IMG_2289.JPG

Phật tử nhất tâm nghe giảng về Không Phóng Dật

Không Phóng Dật là phẩm thứ 2 trong Kinh Pháp Cú. Theo chữ Hán thì “phóng”[1] có nghĩa là phóng túng, không cẩn thận, xao lãng. Xao lãng có nghĩa là sao nhãng, tức là: “không để tâm, tập trung vào công việc chính[2]. Dật[3] có nghĩa là “lầm lỗi”. Vậy thì “ phóng dật” nghĩa là phóng túng tâm ý, buông thả, hành động của mình theo sự lầm lỗi. Vậy Không Phóng Dật nguyên gốc Pali nghĩa là sao? Appamada[4] nghĩa là không xao lãng, không phóng dật và cũng có thể dễ hiểu là “cẩn thận”. Đại ý của Phẩm Không Phóng Dật gồm những câu khuyến thiện, nhắc nhở làm việc lành, tạo nghiệp lành, luôn giữ tâm ghi nhớ mình, cẩn thận, thường (chính niệm) biết rõ mình đang làm việc gì.

Vậy, câu kệ 21 trong Phẩm Không Phóng Dật viết rằng:

“Không phóng dật, đường sống

Phóng dật là đường chết

Không phóng dật, không chết

Phóng dật như chết rồi[5]

Trước hết, Phật xác quyết chỉ ra hai con đường, một con đường không phóng dật thì được tồn tại, sống không chết.  Con đường thứ hai, là con đường phóng dật dẫn tới khổ đau, phiền não, tới chết. Ví như người say rượu, đêm ngày không biết được mình tỉnh hay mê, chửi cha mắng mẹ, đánh vợ, hành con tới khổ. Người không phóng dật, trú tâm của mình vào việc “biết rõ” mình đang làm, đang suy nghĩ, đang nói, ta làm chủ được bản thân, bản tâm, giữ gìn được giới luật, tu tập được tinh tiến, cuộc sống yên ổn an lạc.

Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là hướng con người ta quyết tu tập, đạt cho được tâm không phóng dật (an định), có cuộc sống an lành, hạnh phúc, xã hội ổn định phồn vinh. Còn người sống phóng dật, buông lung, tâm điên đảo dẫn đến làm những việc hại mình, hại người. Trượt dài trên u minh tăm tối, vào chốn lầm mê từ lúc nào không hay biết. Đây chính là những mặt trái của xã hội, mà nhìn vào đấy ta thấy bất cứ là ai, ở đâu, trình độ học vấn cao đến đâu đi chăng nữa, mà để tâm mình phóng dật thì không thể tìm thấy ánh sáng Phật pháp mà tu tập, sống không lập trường, nghiêng ngả, kém phúc tuệ nên tâm phóng dật là ta tự hại chính ta và chết dần từ lúc nào mà ta không hay biết. Sống thực dụng xa rời truyền thống văn hóa xã hội, suy thoái đạo đức, lệch lạc tư tưởng chính trị, bàng quang trước xã hội. Bởi thế cho nên những người cẩn thận, giác ngộ trí tuệ thấy được lợi ích của lời Phật dạy, họ sẽ định hướng được tâm cùa mình. Nên Kệ 22 phẩm Không Phóng Dật viết:

“Biết rõ sai biệt ấy

Người trí không phóng dật

Hoan hỷ không phóng dật

An vui hạnh bậc thánh”[6]

Khi con người tâm không phóng dật trí tuệ minh mẫn, giúp cho mỗi người chúng ta luôn phải trăn trở sống làm sao cho ích đạo , lợi đời, sống nhân ái, sẻ chia, sống có trách nhiệm. Tự tâm chúng ta quyết tu tập đạo pháp tìm về chính giác, giúp cho con người có cuộc sống an lành, gia đình hạnh phúc, xã hội ổn định phát triển phồn vinh. Nên người có tâm không phóng dật thường là người đã giác ngộ được tư tưởng giáo lý Phật pháp. Họ kiểm soát được hành động, suy nghĩ của bản thân, điều chỉnh được tâm trí, làm việc lành, lánh việc dữ nên cuộc sống luôn hoan hỷ, an vui.

                               Kệ 23 viết: “Người hằng tu thiền định

Thường kiên trì tinh tiến

Bậc trí hưởng Niết Bàn

Đạt an tịnh vô thượng”[7]

Kệ trên Phật nhắc cho chúng ta biết, vấn đề Thiền Định là để khai tâm, trí sáng, giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Người tu thiền định thường xuyên, tức để tâm ý vào một việc chung nhất, hay một đối tượng, theo dõi theo nó theo lý Duyên sinh, cái này có là do đủ duyên, khi kém duyên thì nó thành cái khác, thực thể bản chất của việc, đối tượng ấy là thanh tịnh, vô ngã. Quán chiếu trong Thiền định như thế dẫn tới tâm trí sáng, làm chủ được thân tâm không chạy theo vô thức, phóng túng theo trần cảnh mê lầm. Người thường tu Thiền Định, bền chí, tinh tiến thì sẽ đạt được cảnh giới Niết Bàn, an tịnh vô thượng ( trạng thái yên tĩnh tột cùng).

IMG_2282.JPG

Lớp giáo lý nâng cao của thủ đô Hà Nội đang cẩn thận trú tâm nghe Kinh Pháp Cú

Người có tâm không phóng dật, thì bất cứ ở đâu, lúc nào tâm cũng tĩnh, ung dung tự tại, luôn luôn giữ gìn giới luật, quyết tâm tu tập tự giác, sống nhân ái sẻ chia, không bao giờ sống buông lung, mà khi chúng ta giác ngộ được ánh sáng đạo pháp mới thấy sự màu nhiệm của Phật pháp là vô biên, giúp chúng sinh thoát chốn mê lầm, đón nhận niềm an vui, cực lạc.

 “Chúng ngu si thiếu trí

Chuyên sống đời phóng dật

Người trí không phóng dật

Như giữ tài sản quý”[8]

Trong một thế giới phẳng đầy những cạm bẫy, cạnh tranh, mọi người bị cuốn vào nhịp sống hối hả, thì hơn lúc nào hết những lời Phật dạy cảnh tỉnh, giúp ích rất nhiều cho mỗi người chúng ta. Lời Phật dạy chỉ ra cho chúng sinh những lợi ích lớn lao của việc tu tập theo Phật pháp. Vì chỉ tu tập tinh tiến ta mới giữ được tâm mình trong sáng sống đẹp, sống có ích cho xã hội, biết sẻ chia quan tâm đến cộng đồng. nên người có tâm không phóng dật là đã giác ngộ đi theo con đường Phật pháp, còn người có suy nghĩ mông lung có tâm phóng dật thì sớm muộn bị ba nghiệp tham, sân, si ngự trị trong hành động và suy nghĩ nó làm cho con người suy thoái đạo đức lối sống, vi phạm pháp luật, vướng vào lao lý. Nên chỉ có kẻ ngu mới sống phóng dật, người giác ngộ giữ được tâm không phóng dật, luôn tự giác học tập tu dưỡng, rèn cho bản thân có tâm trí sáng, hoài bão lớn sẵn sàng cống hiến cho đạo pháp, và dân tộc. Ở đây ta thấy ý nghĩa: “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” trong Kinh điển của Phật giáo Đại thừa, tất cả đều do chúng sinh khởi từ tâm, tâm không phóng dật thì nhân lành nảy nở nghiệp dữ tiêu trừ, còn tâm phóng dật thì nghiệp dữ tăng trưởng, khổ não triền miên.

Tóm lại, Không Phóng Dật là lời Diệu Pháp, là nấc thang cơ bản, ban đầu để hướng con người định được tâm, nhờ định tâm mà biết được, cuộc đời, vạn vật, hiện tượng, con người đều do nhân duyên hòa hợp và thành, mà tán, hiểu được các nhân duyên gá hợp vào nhau mà có mặt, mà chuyển hóa. Người có tu tâm, quán tính thì thấy được Không Phóng Dật là quan trọng, cần nhận biết nó, cần theo dõi hướng nó nên làm thế này mà không nên làm thế kia theo tâm chỉ đạo đúng hướng có lý, lợi cho bản thân và xã hội. Với ai không phóng dật sẽ cứu ta thoát khỏi khổ đau, có được an lạc hạnh phúc dù bất cứ nơi nào. Để tạm kết cho phần nghiên cứu này ta có thể mượn mấy câu thơ của Hồ Chí Minh viết nhắc nhở Thanh Niên cần để tâm nhận thức rõ ràng, cẩn thận, biết thì nói rằng biết, không biết nói là không biết, việc gì khó cũng có thể làm được chỉ cần giữ gìn bền tâm, “ quyết chí”. Quyết chí là quyết tâm cẩn thận, không phóng túng, bền chí trong công việc sẽ thành công, không có gì khó khăn. Vậy nên, Bác Hồ đã làm bài thơ:

 Không có việc gì khó

Chỉ sợ lòng không bền

Đào núi và lấp biển

Quyết chí ắt làm lên”[9]

 Có thể nói, nếu như toàn bộ Kinh Pháp Cú, hòa thượng Thích Minh Châu dịch theo lối câu kệ 5 chữ, thì những câu thơ của Bác Hồ cũng theo lối thơ câu kệ 5 chữ, ta thấy câu thơ hay, vần điệu, ngắn gọn chứa đựng truyền tải được nội dung dù gian nan khó khăn thế nào, nhưng có tâm bền vững, không phóng dật, quyết chí làm việc gì cũng ắt thành công./.


[1] Thiều Chửu,Hán ViệtTừ Điển, Nxb Văn hóa thông tin, tr.229

[2]Trung tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý chủ biên, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa – thông tin, tr. 1430

[3] Thiều Chửu, Hán ViệtTừ Điển, Nxb Văn hóa thông tin, tr.612

[4] Tỷ khiêu Đức Hiền biên soạn, (2009), Kinh Pháp Cú (phân tích từ ngữ Pali), Nxb Tôn giáo, tr.38 - 39

[5] Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33

[6] Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33

[7] Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33

[8]Thích Minh Châu dịch (2014), Tiểu Bộ Kinh tập 1 và 2, Kinh Pháp Cú, Nxb Hồng Đức, tr.33

[9] http://www.bqllang.gov.vn/ bai tho cua Bac Ho can dan thanh nien ra doi nhu the nao


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage