Thời
đại vàng thau lẫn lộn, người thiếu thiện căn khó mà phân biệt khi chỉ
biết nghe và thấy những lời dạy thuận theo sở cầu, sở dục cá nhân. Thà
chấp nhận pháp hành tiệm tiến Nhân đạo, Thiên đạo còn hơn là làm dân ma
vĩnh viễn trầm luân.
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chánh giáo và tà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chánh và tà?
Trước khi đi vào vấn đề, cần có một điểm chung khi tham gia vào vấn
đề phân tích. Nếu cứ mạnh ai nấy bảo lưu ý riêng, không đồng nhất điểm
chung thì việc Chánh Tà chỉ là tiếng sét của vịt nghe sấm. Vậy vấn đề
đầu tiên của những người đứng trong giáo lý nhà Phật mà nhận xét, tất
cả những giáo lý trong và ngoài Phật giáo y cứ trên kinh tạng nhà Phật
đó là Tam Pháp Ấn (vô thường - vô ngã - niết bàn và trên pháp hành:
Giới (Sila), Định (Samadhi) và Tuệ (Panna). Những giáo lý không đủ yếu
tố trên, được coi là tà giáo, ngoại đạo.
Nhưng như thế vẫn chưa được xem là chuẩn. Những thế kỷ mà giữa Nam
truyền và Bắc truyền chưa được giao lưu văn hóa của nhau, giáo lý
"Nguyên Thủy" xem giáo lý "Phát Triển" là ngoại đạo. Thiền xem Tịnh là
Bà La Môn giáo. Tịnh xem Mật của Kim Cang Thừa là tà đạo... mãi đến khi
hành trạng được xóa nhòa ranh giới, mỗi tông môn thể hiện cách hành
chứng của mình, mới đủ minh chứng tinh thần giải thoát của nhà Phật.
Nghĩa là những phương tiện hành trì, do căn cơ khác nhau, chư tổ lập
môn khác nhau, do tướng dị biệt, đã tạo một nhận xét bên kia giới tuyến
hiểu lầm nhau.
Ví dụ Kim Cang Thừa, so với Thiền, lễ nghi và hành trạng quá ư phức
tạp, để rồi, đứng trên tinh thần Kinh Kim Cang: "Nhược dĩ sắc kiến ngã,
dĩ âm thinh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai", xem
lối hành lễ của Mật là âm thanh sắc tướng, vội phủ nhận tính căn bản
của tông phong Mật thừa. Có đi sâu vào Kim Cang Thừa mới thấy được tính
uyên thâm đi từ sự đến lý, đi từ tướng vào tánh để rồi Tánh Tướng viên
dung. Vũ Trụ Tướng được thể hiện qua Ngũ Phương Bát Thức, nhập vào Tỳ
Lô Giá Na Tạng. Hành giả hành trì miên mật qua các công đoạn được tẩy
rửa nghiệp thức để khai phát tuệ giác.
Cũng thế, theo tinh thần tự giác, Phật giáo phủ nhận một Thần Tượng,
một tha lực làm cho hành giả ỷ lại; với tính chuyên cần của một hành
giả, giáo lý nhà Phật luôn khích lệ sự nổ lực cá nhân, khác hẳn các tôn
giáo Thần quyền. Do vậy, Tịnh tông bị nhìn dưới cái hiểu là Thần giáo,
ỷ lại và van xin một đấng giáo chủ. Do tính câu chấp chưa tìm hiểu
thấu đáo mà sự ngộ nhận chia rẽ các tông phái phát sinh. Với
Tín-Hạnh-Nguyện, Phước Huệ song tu của Tịnh Tông thì không thể bảo là
Bà La Môn giáo, vì nó đòi hỏi hành giả nổ lực, tinh cần hơn là van xin ỷ
lại.
Nhìn hành tướng đánh giá dễ sai lệch, nhưng mấy ai, do tính bảo thủ
pháp hành của mình, không chịu tìm hiểu thấu đáo bổn môn của Tông phong
khác trong cùng một tín ngưỡng!
Rõ ràng, Thiền Tịnh Mật đều có đủ những yếu tố của Tam Pháp Ấn và Tam
Vô Lậu Học, nhưng hành tướng có sự dị biệt đến độ tương phản nhau.
Chánh và Tà trong cùng một tín ngưỡng:
Nếu y cứ Tam Pháp Ấn hoặc Tam Vô Lậu học để xác định là Chánh - Tà
cũng chưa đủ. Ví dụ, kẻ tà tâm dùng kinh điển giáo lý nhà Phật để mưu
lợi, lừa đảo… thì kinh điển được kẻ tà tâm sử dụng như thế không thể
bảo là Chánh: Tà nhơn hành chánh pháp, chánh pháp thị tà Pháp!
Vì vậy, ngoài cốt tủy của tinh thần giáo lý, còn tùy phương tiện sử
dụng và mục đích sử dụng. Ngày nay, Tàu và Việt Nam, phần lớn dùng kinh
điển nhà Phật đi xa mục đích giải thoát, và hình tướng tu sĩ cũng bị
một số lợi dụng làm hoen ố, đánh mất phẩm giá cao đẹp của hình tướng
Như Lai. Thế thì, Chánh và Tà còn phải đứng ở một góc độ khác tinh tế
hơn để thẩm định.
Một tu sĩ chân chánh, vì phương tiện độ kẻ sơ cơ, dùng ngoại pháp để
độ người về với chánh pháp, thì không thể xem đó là tà pháp: Chánh
nhơn hành tà pháp, tà pháp thị chánh pháp.
Dĩ nhiên phương tiện đôi khi đưa hành giả đi xa mục đích ban đầu, để
gọi là dĩ huyễn độ chơn, nhưng rồi chơn đã bị huyễn độ trở thành mê tín
như cúng sao giải hạn, đốt vàng mã...
Chánh Tà không cùng tín ngưỡng:
Thời Đức Thế Tôn hiện tiền cũng như ngày nay, bàng môn tả đạo đầy dẫy
như cỏ hoang, người muốn đến với giải thoát khó mà phân biệt Chánh Tà.
Được trang bị giáo lý qua Tam Pháp Ấn và Tam vô Lậu học cũng chưa chắc
đã khỏi bị lầm lạc vào chốn vô minh.
Thí dụ, Ngoại giáo cũng lập cứ trên tinh thần cuộc sống là cõi tạm:
"sống tạm thác về". Cõi nầy là khổ đau, không thật, hãy lập công trạng
để vinh danh... để làm đẹp lòng giáo chủ, sau khi thác, được hưởng đời
đời hạnh phúc an lạc trên cao...
Và cũng có Giới luật khắc khe riêng, có pháp hành riêng, có tuệ tri
riêng… Tam Pháp Ấn đó, Tam Vô Lậu Học đó của ngoại giáo làm sao tín đồ
môn phái đó được biết Chánh hay Tà?
Những pháp thuộc tục đế như bùa thuật, Năm Ông, Ngũ hành, luyện tinh
binh... dễ phân biệt tà thuật; riêng những pháp như Tiên gia, Yoga, đạo
thuật... cũng giúp hành giả thoát khỏi trần tục, nhưng chưa hẳn đã
giải thoát luân hồi.
Trong lục đạo, từ cõi Nhơn đến cõi Thiên, nếu hành giả không đủ năng
lực tự giải thoát luân hồi, thì ngũ giới và thập thiện của nhà Phật
cũng giúp tín đồ giải quyết, tránh xa con đường đi xuống cảnh giới
thấp. Dĩ nhiên cõi Nhơn và chư Thiên có một phước báu nhất định và còn
bị ràng buộc trong sanh tử luân hồi. Nếu đủ phước thì sẽ gặp Phật Pháp
tiếp tục tiến tu. Nếu căn cơ sâu dày thì một đời gặp minh sư dứt hẳn
sanh tử.
Quan điểm của ngoại giáo vẫn là thoát tục nhưng không nói đến giải
thoát, chấm dứt sanh tử luân hồi. Họ vẫn tránh xa ác pháp tội lỗi;
không sát sanh và giới luật gần với đạo giải thoát. Vì thế, không thể
bảo là Tà giáo, mặc dù chưa đúng chánh đạo hoàn toàn. Họ có khuynh
hướng đi lên, nhưng khả năng giới hạn.
Một số hành giả đạt được tâm linh tương tự sự giải thoát của các
hành giả Phật giáo. Trạng thái tâm thức lọt vào cảnh giới "không vô
biên xứ, thức vô biên xứ" nhưng còn vi tế ngã vì chưa diệt sạch vi tế
vô minh, có thần thông. Họ chưa nắm rõ biến trạng của ngũ ấm ma qua 50
trạng thái mà Lăng Nghiêm mô tả, vì thế bị ấm thức lạc dẫn, tự cảm nhận
mình là một Phật sống, là chúa tể, là đấng sáng tạo có nhiều quyền
năng... Giáo lý đúng là giáo lý giải thoát, nhưng hành trạng lại là
vọng tưởng của ấm ma; chính vì thế mà bản thân đã bị lạc dẫn, những tín
đồ nương tựa cũng không biết mình đang bị lưới vô minh bủa vây. Đây
thật sự là Chánh Tà khó phân.
Tóm lại, vấn đề Chánh - Tà không thể ý cứ vào giáo lý, vào pháp hành
mà còn nhiều yếu tố tinh tế khác, yếu tố quan trọng nhất vẫn là vi tế
ngã trước quần chúng. Chư Phật, chư Tổ không tự nhận mình là một giáo
chủ, chứng tỏ không còn vi tế ngã. Đời sống đạm bạc thanh thoát một
phần thể hiện đức giải thoát; không tích trữ, không hưởng thụ. Lời dạy
không lưu dấu tục đế như chim bay qua không gian không để lại bóng
hình. Dù hành giả của Phật giáo hay ngoại giáo đạt đến vô ngã, vị
tha...đều là chánh pháp, ngược lại, đều là Tà pháp.
Thời đại vàng thau lẫn lộn, người thiếu thiện căn khó mà phân biệt
khi chỉ biết nghe và thấy những lời dạy thuận theo sở cầu, sở dục cá
nhân. Thà chấp nhận pháp hành tiệm tiến Nhân đạo, Thiên đạo còn hơn là
làm dân ma vĩnh viễn trầm luân.
Minh Mẫn (26/8/2013)