Amarbayasgalant
Khiid là một trong ba tu viện Phật giáo lớn nhất ở Mông Cổ, xây dựng
vào thế kỷ 18 trong thời kỳ nhà Mãn Châu (ở phía Đông Bắc Trung Quốc -
lập ra nhà Thanh) đã lớn mạnh thành một đế chế, tiêu diệt nhà Nguyên do
Hốt Tất Liệt - một đại hãn Mông Cổ lập nên.
Tu viện được xây
dựng thời đó với số tiền tương đương gần 4 tấn bạc nén, là nơi tu hành
và giảng dạy Phật giáo. Cho tới đầu thế kỷ 20, tu viện đã là một thư
viện, một kho tàng các sách vở, tư liệu, kinh kệ nhà Phật lớn hàng đầu ở
Mông Cổ.
Không may, những
biến cố lịch sử trong những năm cuối thập kỷ 30 của thế kỷ trước đã tàn
phá hầu hết những gì nó đã tích giữ được trong gần 200 năm.
Tuy thế, cũng còn
may mắn so với nhiều công trình kiến trúc Phật giáo khác cùng thời trên
đất nước này bị phá hủy gần như hoàn toàn.
Những gì còn lại
của tu viện dễ mang đến cho bạn cảm giác bùi ngùi trước những thăng trầm
của lịch sử. Con người xây nên hết cả rồi cũng phá đi hết!
Tu viện Amarbayasgalant Khiid lớn nhất Mông Cổ
Zanabazar, người
đã xây dựng nên tu viện này, là con trai của một Hãn Mông Cổ thời đó,
theo Phật giáo Tây Tạng và cũng lại là một lãnh đạo tinh thần Phật giáo
của xứ Đông Mông Cổ, vậy nên dấu vết Phật giáo ở đây đậm nét Tây Tạng mà
ngay tại tu viện còn nhìn thấy rất rõ.
Có nhiều sự trái
ngược về Zanabazar, tỉ như đã dựa vào thế quân Mãn Châu để chống lại
chính hãn Mông Cổ phía Tây, mở đầu cho sự phụ thuộc vào Mãn Châu và cuối
cùng bị Mãn Châu thôn tính, trở thành thuộc địa của nhà Thanh, đến tận
đầu thế kỷ 20 mới độc lập thành đất nước Mông Cổ ngày nay.
Nhưng về mặt nghệ
thuật, Zanabazar lại được coi là Michelangelo của châu Á với những đóng
góp cho sự phát triển của nghệ thuật, ngôn ngữ, thiên văn, hội họa. Ngày
nay, nếu bạn gõ chữ “Zanabazar” trên Google thì dường như những cảm
nhận của Phật giáo và nghệ thuật sẽ lấn át hết những dấu vết về lịch sử
của con người này.
Chiều tà, những tia
nắng cuối cùng nghiêng bóng trên những vách tường, ô cửa lặng lẽ của tu
viện. Một nhà sư nép mình bước dưới bóng đổ xiêu xẹo của những mái nhà
cong vút, nơi đã từng có tới 2.000 nhà sư tu hành.
Ngày nay, ở đây
chỉ còn vài chục người mà hiếm hoi lắm du khách mới nhìn thấy bóng dáng
của họ. Tu viện u tịch như chốn không người. Vẻ quạnh hiu của nó càng
được đè nặng với bóng đêm rộng lớn đang lan dần từ khe núi phía Đông
Bắc.
Phật giáo, cũng giống
các tôn giáo khác, không có những dấu hiệu rõ ràng ở những bộ tộc du
mục Mông Cổ cho tới khi Thành Cát Tư Hãn xây dựng được đế chế của mình.
Trên hành trình
chinh phục các vùng đất khác nhau với các tín ngưỡng khác biệt, Hãn đã
ngạc nhiên khi gặp các ngôi chùa Phật giáo, các thánh đường Hồi giáo hay
nhà thờ Thiên chúa: “Trên mặt đất này đâu chẳng có Trời, cần gì phải
đến một địa điểm nhất định để tỏ lòng tôn kính?”. Đây cũng là nhân sinh
quan của các bộ tộc du mục, nơi mà cuộc sống nay đây mai đó, ngẩng mặt
là trời, cúi mặt là đồng cỏ, xung quanh là gia súc.
Và ngay khi đã
xây dựng được đế chế trải rộng từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam tới
hàng chục ngàn cây số với sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo, dân tộc,
luật của Hãn cũng định rõ: “Trong đế quốc của ta, ai cũng có quyền tin
tưởng nơi thượng đế của họ, nhưng phải tuân theo luật do Thành Cát Tư
Hãn ban hành”.
Do vậy, dưới thời
Đại Hãn, các tôn giáo được tự do phát triển. Thế nhưng, chính sự rộng
mở về mặt tư tưởng này cũng dẫn tới sự khác biệt lớn lao về sau giữa các
Hãn. Các Hãn được Đại Hãn giao cai quản các phần đất phía Tây và Tây
Bắc của đế quốc, dần dần ảnh hưởng và theo đạo Hồi, trong khi đó, các
Hãn ở trung tâm đế quốc hoặc cai quản miền đất phía Nam, mà sau này trở
thành đế quốc Nguyên Mông, lại chịu tác động sâu sắc của đạo Phật và
Khổng giáo Trung Hoa.
Điều này cũng
chính là một trong những nguyên nhân gây ra sự tan vỡ của đế chế vào
giữa thế kỷ 13, khi mà mỗi Hãn, cai quản một vùng rộng lớn, bị ảnh hưởng
của các tôn giáo khác nhau, đã có sự xa lạ về văn hóa, triết lý, nhân
sinh quan, không còn như xuất phát từ một dòng họ nữa mà đã là những đế
quốc khác biệt.
Bình
minh trên thảo nguyên, với những “ger” (lều) màu trắng lạ mắt
Đêm nay, chúng tôi
không phải cắm trại ngoài cánh đồng mà được ở trong một khu lều Mông Cổ
(ger ), nằm gần tu viện. Quanh tu viện có một vài khu nghỉ, cũng giống
như nhiều nơi khác, không có nhà mà phần lớn là ger.
Lều này được dựng
nguyên trạng như khu lều của người dân, chỉ khác là nó sạch sẽ hơn.
Trong lều không nhiều đồ đạc lỉnh kỉnh, đơn giản chỉ có những chiếc
giường đơn và ở giữa là lò sưởi.
Quen thói khách
sạn, đầu tiên cả đội cũng hỏi han đủ thứ kiểu như có toilet, có nước
nóng… không. À, có tất nhưng nó là một dãy phòng vệ sinh công cộng riêng
ở ngoài. Cái toilet thì như một cái thùng có nắp chứ ở đây nước không
có nhiều để mà xa xỉ xây cái toilet giật nước xoành xoạch như ở ta.
Còn nước nóng cho
mỗi người là một ấm nước sôi muốn tắm chỗ nào thì tắm! Trong giá phòng
bao gồm các bữa ăn. Mà thật ra thì không ăn ở đó thì cũng chả biết ăn
đâu. Vậy nên khi tới đây, bao giờ cũng phải trù tính xem mình ở lại mấy
đêm, ăn mấy bữa thì người ta mới biết đường mà tính giá.
Đêm, nhiệt độ ngoài
trời xuống tới suýt soát 0 độ, vang váng một làn băng trong không gian,
dù vẫn đang mùa Hè. Bên trong lều, hơi lửa ấm sực lên xóa tan cái giá
lạnh ngoài kia, dù chỉ cách nhau bằng một lớp dạ lông cừu làm vách…
Gần tu viện, có một
xóm nhỏ. Khác với các làng xóm ở ta, đầu làng bao giờ cũng chợ, thì ngay
cả những xóm nhỏ Mông Cổ, nơi dân sống tập trung hơn, thay cho chợ chỉ
là một vài cửa hàng bách hóa cung cấp những nhu yếu phẩm cần thiết nhưng
đơn giản cho cuộc sống du mục, từ kim chỉ, xà phòng đến ắc quy ô tô.
Ngoài ra, mỗi
làng đều có một “trung tâm giải trí” ở một quán nhỏ, nơi có một vài bàn
bi-a, bán ít rượu Chingis hoặc những thứ tương tự, nơi mà thanh niên
trong vùng gặp nhau, trò chuyện, uống rượu và bàn chuyện tán gái. Còn
các cô gái, dường như họ chỉ loanh quanh với đàn ngựa, đàn bò của mình!
Theo: thethaovanhoa.vn