Thật vậy, trên bước đường du hóa, Ngài đã cứu độ được nhiều
người thoát khỏi cuộc sống bế tắc khổ đau và đặc biệt, Ngài đã phá vở
những định kiến sai lầm có từ ngàn đời tạo thành một xã hội bất công,
khiến người dân Ấn phải gánh chịu đời sống bất an, thống khổ, nghèo đói,
lạc hậu.
Với trí tuệ của bậc Toàn giác, Đức Phật đã khai tâm mở trí cho con
người, để họ không sống mê muội theo tà giáo, không còn những suy nghĩ
khiếp sợ thế lực vô hình do tà giáo đặt ra.
Đến khi Phật Niết bàn, tuy Ngài không hiện hữu trên thế gian này; nhưng
những lời chỉ dạy quý báu của Ngài vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho
các dân tộc khắp năm châu, tạo nên sức sống Phật giáo muôn màu muôn vẻ.
Riêng đạo Phật đã gắn bó với dân tộc Việt Nam gần 20 thế kỷ, vẫn còn ảnh
hưởng sâu sắc trong cuộc sống của người dân Việt. Đó là nhờ truyền
thống nhập thế của Phật giáo Việt Nam đã làm lợi lạc cho đất nước, cho
dân tộc.
I. PHỤC HỒI ĐẠO ĐỨC THEO PHẬT GIÁO
Có thể nói trình độ văn minh của loài người ở thế kỷ 21 thật quá siêu
đẳng và công bằng mà nói, sự phát triển văn minh ấy đã mang đến cho đời
sống con người được nhiều tiện nghi vật chất và tạo được không ít kết
quả tốt đẹp ở một số lãnh vực hoạt động.
Nhưng bên cạnh những thành công tốt đẹp của xã hội văn minh ngày nay,
điều thảm hại đến mức độ nhân loại đang gióng lên hồi chuông báo động
rằng đạo đức của con người đang bị suy sụp trầm trọng và điều nghịch lý
là văn minh vật chất càng lên cao thì đạo đức con người càng xuống thấp.
Quan điểm này đã được học giả nổi tiếng P.A. Payutto phát biểu rằng Cùng
với sự tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt cái gọi là kỹ thuật cao đề cập đến
những thông tin liên lạc, ngày càng nhiều những công cụ làm việc mang
lại hiệu quả vì tính tham lam và lòng sân hận.
Ngành kỹ thuật đã trở thành tay sai của sự tham lam và lòng căm
hờn, sự tiến bộ kỹ thuật trong hình thức phát triển công nghiệp hầu như
không giới hạn.
Ngành khoa học, công nghệ và sự tiến bộ kỹ thuật thông tin liên
lạc thường ru ngủ con người vào trong sự tiêu hủy, đần độn, say sưa, lơ
là hơn là sự phát triển cá nhân, hoặc sự quân bình cuộc sống.
Chúng được sử dụng như những công cụ để mưu cầu mục đích khát
vọng và với việc làm như thế, khiến phát khởi lòng sân hận vì sự ganh
đua mà chúng tạo ra (1)
Để khắc phục tất cả những những khó khăn và sự tác hại cho đời sống con
người như vừa nêu trên, chúng ta cần áp dụng tinh thần căn bản của Phật
dạy cho con người trong cuộc sống hàng ngày rằng sự tri túc là chính
yếu. Nghĩa là trước nhất, tất cả đệ tử Phật cần hạn chế lòng ham muốn,
cho đến triệt tiêu những ham muốn vô bổ và hãy sống thiết thực trong sự
tĩnh giác, khi đó sẽ nhận thấy rằng nhu cầu vật chất không cần nhiều như
người ta thường lầm tưởng.
Xây dựng trên nền tảng của cuộc sống tri túc, không lao theo sự đua đòi
hưởng thụ vật chất, là mỗi người đã góp phần không nhỏ cho việc giảm bớt
sự phá hủy môi trường, giảm bớt sự cạnh tranh không lành mạnh; vì một
khi tài nguyên bị khai thác cạn kiệt sẽ tiêu hủy môi trường sống bởi
việc cung ứng những sản phẩm và dịch vụ chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất để thu lợi nhuận ngay trước mắt mà bất kể những tác hại to lớn cho
sự sống của mọi người và của cả trái đất.
Ý thức được sự nguy hại này, một chương trình gọi là “Giờ trái đất”
kêu gọi mọi cá nhân và mọi quốc gia tắt bớt đèn thừa trong một tiếng
đồng hồ vào ngày 28-3-2009 từ 20g30 – 21g30 để ngăn chặn sự thay đổi môi
trường và cứu lấy trái đất của chúng ta.
Thực hiện lời Phật dạy, mỗi người tự hạn chế lòng ham muốn phát xuất từ
túi tham không đáy, để phát triển tâm từ bi, bảo vệ sự sống của muôn
loài, cho đến sự sống của cỏ cây, của dòng nước, của đất đai, của không
khí; vì suy cho cùng, thương yêu và bảo vệ sự sống của muôn loài một
cách thiết thực chính là thương yêu bảo vệ cuộc sống của chúng ta, của
cả mọi người.
II. PHẬT GIÁO VÀ BẢO VỆ MÔI SINH
Hàng đệ tử Phật thể nghiệm giáo pháp Phật dạy, không tham lam, không làm
những việc tác hại đến muôn loài, qua cách sống thiểu dục tri túc.
Đó là cách sống hiểu biết và cao thượng, hạn chế tâm vị kỷ, không vì
làm lợi cho riêng mình mà gây tổn hại đến người khác, đến các sinh vật
khác, sống hài hòa với thiên nhiên, không phá hủy môi sinh, không khai
thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, chỉ khai thác những gì
thiết yếu và khai thác có mức độ, để thế hệ kế tiếp có thể tiếp tục được
hưởng của cải thiên nhiên, chứ không để con em mình phải hứng chịu
những tai họa khủng khiếp gọi là “Thiên nhiên nổi giận” như trận sóng
thần chẳng hạn.
Thể hiện tinh thần Phật dạy về nếp sống hài hòa với thiên nhiên, những
ngôi chùa ở một số quốc gia cũng như ở Việt Nam thường được xây dựng
trên đồi núi, hay trong khu rừng.
Đặc biệt hơn nữa, hiện nay nạn phá rừng tràn lan gây ra nhiều tác hại
ở nhiều lãnh vực mà thế giới đang cảnh báo. Trong khi đó, nhà chùa đang
ra sức gìn giữ, bảo hộ rừng và trồng rừng một cách tích cực và đạt được
nhiều kết quả rất tốt.
Những ngôi chùa với khu rừng Thiền cây cối xanh tươi, ao hồ sạch đẹp,
tỏa không khí trong lành và nếp sống an bình đã là thắng tích mà khách
thập phương thường tìm đến để hưởng được sự thanh thản cho tâm hồn và sự
khỏe mạnh cho thân thể.
Có thể nói những đồi núi, rừng Thiền của chùa chiền chính là lá phổi
trong sạch của trái đất chúng ta, một trong những yếu tố vô cùng thiết
yếu cho việc bảo vệ môi trường sinh thái trong thời đại quá nhiều nhiễm ô
hiện nay.
III. SỰ NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
1. ĐẠO PHẬT GẮN LIỀN VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM
Sự đồng hành mật thiết của Phật giáo với dân tộc trong suốt chiều dài
lịch sử hơn 2000 năm đã trải qua biết bao thăng trầm. Và chính sự gắn bó
sâu sắc đó đã tạo thành một mô hình Phật giáo Việt Nam mang tính chất
riêng biệt, tràn đầy sức sống.
Thật vậy, từ thời kỳ sơ khai lập quốc, trong các cuộc đấu tranh sinh tử
ngàn năm chống Bắc thuộc, đã có sự đóng góp rất hữu hiệu của Phật giáo.
Và vai trò quan trọng của Phật giáo vào giai đoạn nước nhà vừa độc lập
đã được lịch sử ghi nhận như sau : “Trong buổi đầu thời kỳ độc lập,
Phật giáo là một tôn giáo chiếm ưu thế trong xã hội. Trong nước, nhiều
chùa tháp được xây dựng. Riêng ở Hoa Lư, năm 973, Nam Việt Vương Đinh
Liễn, con trai trưởng của Đinh Tiên Hoàng cho dựng 100 cột đá khắc kinh
Phật (gọi là kinh tràng). Các nhà sư là tầng lớp có học thức, có uy tín
và ảnh hưởng trong xã hội. Ngoài văn hóa dân gian, lực lượng sáng tác
văn học lúc đó chủ yếu cũng là các nhà sư. Những tác phẩm văn học thành
văn của giai đoạn này còn lại đến nay là một số bài thơ chữ Hán của các
nhà sư Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, v.v…" (2)
Ảnh hưởng của Phật giáo đạt đến mức cao nhất ở thời Lý cũng được ghi rõ
trong lịch sử : “Vào đời Lý, trong xã hội, Phật giáo vẫn chiếm ưu
thế và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng. Đời Lý là giai đoạn thịnh
đạt nhất của Phật giáo Việt Nam. Thời bấy giờ, Phật giáo truyền bá rộng
rãi trong mọi tầng lớp nhân dân và có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống
xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lãnh vực văn hóa”. (3)
Trong hơn 200 năm, Phật giáo đã giữ vị trí độc tôn và góp phần chính yếu
cho nền văn hóa dân tộc. Ảnh hưởng của Phật giáo ăn sâu vào các ngành
hoạt động thuộc văn học, mỹ thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc. Về
phương diện chính trị, nhờ trí tuệ và đạo lực của các Tăng sĩ, chính
sách được sửa đổi văn minh nhiều hơn.
Các hình phạt độc ác như ném kẻ phạm tội vào chuồng cọp, vào vạc dầu
đun sôi, v.v… của vua Đinh, Lê bị hủy bỏ. Tinh thần Phật giáo đã có ảnh
hưởng lớn lao đối với các vua nhà Lý đem lại sự thanh bình, an lạc cho
đất nước.
Đến đời Trần, các vua là những chiến sĩ anh dũng đã ba lần dẹp tan giặc
khét tiếng Mông Nguyên một cách vẻ vang. Đến khi nước nhà thái bình, trí
tuệ của các ngài hình thành những tư tưởng trong sáng của nhà sư ngộ
đạo, tạo nên dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
2. ĐẠO PHẬT ĐÓNG GÓP CHO XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG THỜI HIỆN ĐẠI
Đặc biệt, sau năm 1975, khi đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống
nhất, tư tưởng từ bi, vô ngã, vị tha của Phật giáo một lần nữa khẳng
định được vai trò thiết yếu của đạo Phật trong lòng người dân Việt.
Thật vậy, các ngôi chùa ngay tức khắc đã trở thành địa điểm thân thương
của người dân qua việc chữa bệnh, phát thuốc, hay các lớp học tình
thương nuôi dưỡng, dạy dỗ những trẻ em mồ côi, khuyết tật, nghèo khổ.
Song song với việc đóng góp lợi ích cho cuộc đời, đạo pháp cũng được
phát huy với việc đào tạo Tăng tài, xây dựng, tu bổ chùa chiền, phổ biến
kinh sách Phật giáo, giảng kinh thuyết pháp, v.v…
Đối với công tác từ thiện xã hội, Tăng Ni và Phật tử một lần nữa lại
tích cực tham gia các phong trào xây dựng đất nước và an sinh xã hội.
Có những vị tu sĩ và Phật tử nguyện sống chung với những bệnh nhân bị
nhiễm HIV/AIDS để an ủi, chăm sóc họ và nuôi dạy những trẻ em khuyết
tật, mồ côi. Có nhiều vị tu sĩ đi tận vùng sâu vùng xa để tài trợ cho
việc mổ mắt, đem lại ánh sáng cho người mù, hoặc đem lại nụ cười cho các
trẻ thơ bị sứt môi.
Và còn rất nhiều Tăng Ni, Phật tử đã tham gia vào các phong trào ích
nước lợi dân, mua công trái, trái phiếu xây dựng Tổ quốc, xây dựng nhà
tình nghĩa, tình thương, xây cầu, mở phòng khám bệnh và phát thuốc miễn
phí, mở lớp học tình thương, mở trường nuôi dạy trẻ khuyết tật, thành
lập cơ sở nuôi dưỡng người già neo đơn, cứu trợ đồng bào bị thiên tai,
bão lụt trong và ngoài nước, v.v…
Về phương diện đối ngoại, mối liên hệ giữa Phật giáo Việt Nam với các tổ
chức Phật giáo trên thế giới ngày càng mở rộng qua những hội nghị,
những cuộc viếng thăm, trao đổi văn hóa, tư tưởng …
Những thành quả nói trên cộng với nhiều thành quả của các hoạt động Phật
sự khác rất đa dạng, phong phú; tất cả chỉ nhằm mục đích làm lợi đạo
ích đời, mở ra chân trời tươi sáng cho con đường đi tốt đẹp của Phật
giáo Việt Nam.
Tóm lại, đạo Phật đã soi rọi ánh sáng từ bi và trí tuệ cho nhân loại
trên khắp năm châu nói chung. Riêng Phật giáo Việt Nam được xây dựng
trên nền tảng những thành quả lợi ích đã thành tựu được trong suốt chiều
dài lịch sử hơn 2000 năm.
Chúng tôi tin tưởng rằng tiếp tục hướng phát triển của giới Phật
giáo, với tiềm lực dồi dào, khả năng tốt đẹp, cùng với lý tưởng và
truyền thống vì hạnh phúc, vì an lạc cho mọi người, Phật giáo Việt Nam
có thể góp phần ưu việt nhất của mình để xây dựng một xã hội tình
thương, công bằng, ấm no và hạnh phúc.
Và xa hơn nữa, xây dựng một thế kỷ 21 chan hòa tình hữu nghị với các
dân tộc và tôn giáo trên thế giới, giúp cho nhân loại cùng sống chung
trong hòa bình, an vui và nhân ái.
Chúng tôi cầu mong tất cả mọi người hiện diện trong đại lễ Phật Đản đều
tiếp nhận được những điều tốt đẹp nhất của Đức Phật trao cho, để cùng
nhau thăng tiến trên con đường thánh thiện và xây dựng được ngôi nhà
chung của nhân loại tràn đầy từ bi, an lạc, hòa hợp, hòa bình và thịnh
vượng./.
Tham luận của HT. Thích Trí Quảng - Phó Chủ tịch HĐTS
GHPGVN, Trưởng Ban Phật giáo Quốc tế TW, Viện trưởng Học viện Phật giáo
Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam tại Đại lễ Vesak 2010 tại Thái Lan
Chú thích:
(1) ) Bài tham luận của P.A.Payutto, Buddhist Solutions for the 21st
Century (Các giải pháp của Phật giáo đối với thế kỷ 21) đọc tại Nghị
viện Tôn giáo Thế giới ở Chicago, 1994.
(2) Trích trang 150, Lịch sử Việt Nam tập 1 của UBKHXH xuất bản 1971.
(3) Trích trang 163, Lịch sử Việt Nam tập 1 của UBKHXH, xuất bản năm
1971
Theo: GHPGVN