Mỗi năm
khi mùa xuân đến, khí xuân tràn ngập núi rừng Hương sơn, hoa mơ nở trắng bao
phủ một màu như tuyết trên khắp các triền núi lòng người cũng ấm áp hơn, thanh
thản hơn chảy trôi theo mái ngư phủ để nhập vào Thiên thai như Lưu Nguyễn thủa
nào:
Xuân hoà thụ sắc ái thương thương,
Hà trọng lâm thâm lộ điểu mang...
Đất
trời Hương sơn không chỉ đẹp ở chiều dài ngút ngát như hoành sơn, ở chiều cao
vời vợi như Lạp sơn Hy Mã, mà còn đẹp ở lòng người khi hành hương về cõi tâm
linh dấu Phật. Cho nên người xưa nói: “Núi không cao thì cảnh chẳng kỳ, đường
không khó thì lòng người khôn tỏ (rõ)”. Hơn nữa đây lại là dấu tích của đức
Quan âm thị hiện. Hành trình về Hương sơn là trở về cội nguồn của từ bi và tri tuệ.
Bởi lẽ Bồ tát Quán âm trong kinh Pháp Hoa đã được Việt hoá hoàn toàn thành Quan
âm Nam Hải hay Phật bà Chùa Hương. Hình ảnh một đức Phật hoá thân (nirmàkàya)
đến cuộc đời và sống trong đời để hoá độ chúng sinh qua biểu tượng một bà mẹ là
hoàn toàn hợp duyên thích ứng với nền văn hoá Bách Việt khi mà chế độ Phụ hệ
chưa hoàn toàn thay thế được chế độ Mẫu hệ.
Hoà
nhập vào dòng người trẩy hội chúng tà hãy lắng nghe tiếng niệm Phật, tiếng kể
hạnh - đặc biệt là các bà mẹ già với chiếc áo dài nâu tay lần tràng hạt:
“Chân như đạo Phật rất màu
Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ nhân
Hiếu là
độ được đấng thân
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài.
Thần thông nghìn mắt ngìn tay
Cũng trong một điểm linh đài mà ra
Rằng trong bể nước Nam ta
Chùa Hương có đức Phật bà Quan Âm”.
Biểu
tưởng nghìn mắt là biểu tượng của đại trí tuệ (mahapraina), biểu tượng nghìn
tay là biểu tượng của đại từ bi (Mahamatri) cho nên bất cứ người nào có đủ đại
trí tuệ đại từ bi thì người đó chính là hiện thân của đức Quán Âm. Hơn nữa
chính danh hiệu (Bodhisattvà Avalokitèsvara) còn có nghĩa là người lắng nghe
đau thương của cuộc đời, tiếng nhiệm màu, tiếng thanh tịnh, tiếng sóng biển,
tiếng siêu việt mọi thứ tiếng trên đời, chúng ta thường xuyên quán niệm bản
chất thanh tịnh và siêu việt của tiếng ấy bởi vì trong mọi trường hợp tử sinh
ách nạn sự quán niệm ấy sẽ là con đường trở về là đồng thể với pháp thân thanh
tịnh của Như Lai.
Thân đà hết lụi thân nên nhẹ
Bụt ấy là lòng Bụt há cầu.
Khi
thân tâm giải thoát hoàn toàn mọi trói buộc phiền não trần lao thì khi ấy Bụt
lòng sáng tỏ lúc đó không còn lo tìm cầu gì khác bên ngoài.
Tu hiếu
hạnh để độ mình và thân nhân là tự độ, tu nhân hạnh để độ chúng sinh là tha độ
như thế là đã làm tròn sứ mệnh thượng cầu Phật đạo hạ hoá chúng sinh theo tư
tưởng Phật giáo Đại thừạ.
“Trên thời báo hiếu sinh thành
Dưới thời nhân, cứu chúng sinh Sa bà
Cơ thân ngồi núi Phổ đà
Thân lên trên Phật thân qua dưới đời”
Với hai
chữ nhân - hiếu hình tượng đức Quan Âm không phải là điều gì xa vời, huyễn hoặc như một số ngộ nhận, nó có sẵn
trong lòng người, nó bàng bạc trong thôn xóm Việt Nam, nó là truyền thống văn
hoá dân tộc, nó là qui chuẩn đạo đức siêu việt thời gian và không gian. Như thế
hình tượng này có thể nói là biểu trưng của nền văn hoá Bách Việt đồng thời nó
cũng chiếm một địa vị vô cùng quan trọng trong niềm tin của người dân Việt Nam. Hình tượng
đức Quan âm là một hình ảnh của một ý chí kiên định như kim cương, một tình
thương bao la rộng lớn như biển thái bình, bao trùm cả gia đình và nhân loại.
“Làng Yến Vĩ có non Hương Tích
Bao khí thiêng đất Việt đúc lên
Phật Quan Âm ngự toà sen
Mười phương quý tiện đua chen tìm về”.
Hình
tượng Phật bà Quan Âm trong nền văn hoá dân tộc là hình bóng rất quen thuộc của
người dân Việt Nam
chúng ta. Hiếu thuận thương người nhẫn nhục độ lượng bao dung là những đức tính
của người Việt Nam
vốn có tự ngàn xưa đã được phát triển và thăng hoa ở mức độ cao cả nhất.
Hành
trình về Hương sơn là trở về sự thanh thản nội tâm, là trở về cõi Bụt lòng khi
đất trời giao cảm đế đối diện với Đông Quân Bản Hữu.
“Tắc
thị thiên địa giao nhi vạn vật thông dã, thượng hạ giao nhi kỳ chí đồng dã”.
(đăng trong Tạp chí nghiên cứu Phật học số 1 )