Một
thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, rừng
Jetavana, dạy các Tỷ kheo:
Một
người, này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời, đem lại hạnh phúc và an lạc cho số
đông, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người. Một
người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác.
Một
người, này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người vi diệu,
khó gặp được ở đời. Một người, khi xuất hiện ở đời, không hai, không có đồng
bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người
ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai? Chính là
Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh đẳng giác.
Sự
xuất hiện của một người, này các Tỷ kheo, là sự xuất hiện của mắt lớn, là sự
xuất hiện của đại quang, là sự xuất hiện của đại minh, là sự xuất hiện của sáu
vô thượng, là sự chứng ngộ bốn vô ngại giải, là sự chứng ngộ quả Dự lưu, Nhất
lai, Bất lai và A la hán.
(ĐTKVN,
Tăng Chi Bộ I, chương 1, phẩm Một người, phần Như Lai [lược], VNCPHVN ấn hành,
1996, tr 46)
LỜI
BÀN:
Lâm
Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi
nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người
vô cùng hoan hỷ. Một đám rước linh đình, xa giá đưa thái tử hồi cung trong niềm
hân hoan tột bậc của vương triều và thần dân Ca Tì La Vệ.
Ngài
ra đời dưới cội Vô ưu, nơi không phiền muộn. Hoa sen tinh khiết không vướng lụy
trần nâng bảy bước chân Ngài ca khúc khải hoàn “thiên thượng thiên hạ duy ngã
vi tôn”, bậc tôn quý trong trời đất. Chỉ có bậc Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, thị
hiện Đản sanh, thành Phật mới đủ phước đức và thần lực làm nên sự kiện hi hữu
này.
Ngài
xuất hiện ở đời, thế giới reo vui, tin lành đến vạn nẻo. Thần dân không hề có
lo sợ, không có cuộc bố ráp hay vây bắt nào và không có trẻ em nào sanh cùng
thời bị giết hại… Chỉ có những nụ cười trên môi khi tin lành Đản sanh truyền
đến, ngoại trừ những giọt nước mắt già nua, quéo quắt trên mặt tiên nhân A Tư
Đà. Vừa cười lại vừa khóc, vì A Tư Đà mừng cho tương lai của thái tử và tủi
phận mình kém phước không trụ thế đến ngày diện kiến Thế Tôn.
Không
lâu sau, dưới cội Bồ đề, bên dòng sông Ni Liên Thiền, ngài trở thành đấng Giác
ngộ. Chư thiên lại vui mừng tấu nhạc. Ma Ba Tuần và dân ma sợ hãi.
Các đạo sĩ khổ hạnh ngỡ ngàng. Xa lìa dục lạc và khổ hạnh, tránh xa hai cực
đoan, Ngài thực hành trung đạo và nỗ lực thiền quán. Rồi đạo lớn được tìm ra,
Bồ Đề đạo tràng sáng lòa trong hào quang của Tam minh. Với Lậu tận minh, tuệ
giác quét sạch mọi vi tế phiền não và chấp thủ, Ngài chứng đắc Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác.
Thế
Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành
tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới dẹp tan vô minh, vượt ra khỏi
mọi sự kềm tỏa của ác ma, giải thoát hoàn toàn mọi chi phối của phiền não, sanh
tử. Thế Tôn là bậc Thiên nhân sư, thầy của trời người. Không chỉ loài người
được ân hưởng tuệ giác Bát nhã soi đường hướng đến và chứng đạt giải thoát mà
ngay cả Thiên chủ, vị thần linh tối thượng cùng với thiên chúng cũng đều quy
ngưỡng, nương tựa.
Ngày
nay, nhân loại đều ghi nhận những giá trị tuệ giác của Đạo Phật trong việc
thiết lập hòa bình. Hóa giải những mâu thuẫn, xung đột trong nội tâm mỗi cá nhân,
các đoàn thể, cộng đồng, sắc tộc, tôn giáo và các quốc gia trên toàn thế giới
đang là nhu yếu vô cùng quan trọng. Cội rễ của những xung đột, tranh chấp,
nguồn gốc của mọi khổ đau đều phát xuất từ ý niệm tự ngã, chấp thủ cái tôi, nói
chung là mọi quan điểm, tư tưởng hữu ngã. Vì thế, vô ngã là tuệ giác vĩ đại có
thể cứu tinh cho nhân loại và một người vượt thoát ngã chấp, thấy rõ như thật
về tính Không của vạn pháp, thành tựu tuệ giác vô ngã, xóa sạch tham sân si và
chấp thủ, xứng đáng được trời người xưng tán, Thế Tôn.