HÓA GIẢI LÒNG OÁN HẬN SÂU NẶNG
Pháp
sư: TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây Cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Hóa giải vì cuộc
sống hạnh phúc trên bình diện toàn cầu
Đối với
người tu tịnh độ, hóa giải xung đột vô cùng
quan trọng. Trong các kinh điển, Thế Tôn đã
giới thiệu thế giới cực lạc là thế giới hòa
bình, bình đẳng, nơi các bậc thượng thiện tụ
hội. Nếu tâm không bình đẳng, giờ phút nào
cũng mang nỗi oán hận, nhất định sẽ chướng
ngại việc vãng sinh. Người vãng sinh tâm phải
thanh tịnh, các tổ sư vẫn thường nói “Tâm
tịnh thì cõi Phật tịnh”, hay nói cách khác,
tâm không thanh tịnh, thì bất luận người đó
dụng công thế nào, có niệm hàng vạn danh hiệu
đức Phật cũng không thể vãng sinh:
“Miệng
niệm Di Đà tâm tán loạn
Đau mồm
rát họng chỉ uổng công”
Cho nên,
phải xem việc này là việc lớn để lo liệu.
Không nên cho rằng việc niệm Phật cầu vãng
sinh không liên quan tới an định xã hội và hòa
bình thế giới. Trước khi vãng sinh, giải
thoát trở thành kẻ đại tự tại thì trước tiên
chúng ta phải làm cho xã hội an định. Được như
vậy, mới chắc chắn có thể vãng sinh tịnh độ,
cùng Phật đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, và
đồng hạnh. Chúng tôi đã hai lần tham gia hội
nghị hòa bình của Liên Hiệp quốc, đặc biệt lần
ở Cang Sơn Nhật Bản, cảm xúc rất sâu sắc về
vấn đề này.
Theo Phật
pháp, mỗi người đời đời kiếp kiếp đều có chủng
tử oán hận trong A Lại Da thức. Người người
cùng ở với nhau, luôn cảm thấy không vừa mắt,
điều này ai cũng có thể kiểm nghiệm, bất luận
thấy người nào, việc gì cũng đều không vừa
lòng, đều thấy không vui. Đó là oán hận tích
lũy từ vô lượng kiếp, nếu đồng thời bộc phát
ra, thế giới này sẽ bị hủy diệt như các tôn
giáo phương Tây từng dự đoán. Ngày tàn chính
là toàn thế giới bị hủy diệt, trở lại từ đầu.
Xã hội thế
gian vào thời kỳ có nhiều người tu tập, nhờ
vậy mà bạo phát không xuất hiện. Nhưng tương
lai khó ai biết trước. Một số ghi chép gần đây
trên internet cho biết, cậu bé bảy tuổi đầu
thai đến thế giới này sau khi mãn một kiếp ở
hỏa tinh. Tuổi tác tuy rất nhỏ, nhưng trí tuệ,
năng lực hơn hẳn các nghiên cứu sinh đại học.
Cậu cho biết, quả địa cầu này vào mấy trăm vạn
năm trước đã từng bị hủy diệt, chìm xuống đáy
biển. Nơi đó hiện giờ chính là Ấn Độ Dương.
Các nhà khảo cổ học không thể kiểm chứng được
vì sự việc xảy ra quá lâu trong khi năng lực
nghiên cứu hiện tượng lịch sử chỉ có thể thực
hiện trong khoảng vài nghìn năm, như nổi bật
nhất là sự kiện của cách đây 5000 năm, một
mảng đại lục chìm vào đáy biển Đại Tây Dương.
Một mảng
đại lục chìm xuống Ấn Độ Dương hàng trăm vạn
năm đến nay mới được tiết lộ bởi cậu bé bảy
tuổi này. Có thể hiểu oán khí nhiều đời cùng
lúc bạo phát mà nhà Phật vẫn nói “Cảnh tùy
tâm chuyển”. Cũng vậy, nếu mỗi người đều
có lòng oán hận, thế giới này ắt sẽ hủy diệt.
Ngược lại, mỗi người đều hoan hỉ, đều có tâm
yêu thương, thế giới trở thành cực lạc. Ta bà
và cực lạc thực ra không hề khác biệt. Thế
giới cực lạc không phải do Phật A Di Đà tạo,
ta bà của chúng ta cũng không phải do thượng
đế, vua Diêm La làm chủ tể, mà kinh Phật nói
chính nơi tâm chúng ta làm chủ. Tâm khởi niệm
thiện, thế giới mọi thứ đều thiện, người người
đều thiện, không có gì bất thiện, thế giới này
chính là Hoa Tạng, là cực lạc. Đức Phật thường
nói “Tất cả pháp do tâm tưởng sinh”,
người thế gian cũng thường nói “Tâm nghĩ sự
thành”. Ta nghĩ đến thế giới cực lạc thì
thế giới cực lạc liền hình thành; ta nghĩ thế
giới này an định, mọi người đối xử bình đẳng,
hòa thuận với nhau, không chỉ mình ta nghĩ mà
mọi người cùng nghĩ, chắc chắn sẽ thành tựu. “Tâm
nghĩ sự thành” thế tại sao chúng ta lại
không chịu nghĩ tốt?
Hóa giải xung
đột gia đình
Hiện tượng
không hoà thuận trong gia đình rất phổ biến,
vợ chồng bất hòa, xung đột thường xảy ra.
Nguyên nhân do đâu? Do quan niệm mình đúng,
người khác không đúng; cả hai đều nhìn thấy không
đúng của đối phương thì làm sao có thể hòa
thuận. Trước khi kết hôn, chúng ta thường nhìn
người yêu với con mắt lý tưởng hóa, mọi thứ
thuộc về người đó đều đẹp, đều vừa mắt, nhờ
vậy mới có thể đi đến kết hôn. Đó là trạng
thái tâm lý trước hôn nhân. Tuy nhiên, nếu
vĩnh viễn nghĩ đối phương là đúng, là tốt, khi
có mâu thuẫn, chúng ta dành phần sai về mình,
cam kết sửa đổi thì gia hòa vạn sự hưng. Ghi
nhớ cái tốt của người mới có thể hòa thuận, có
thể hóa giải xung đột, và thực sự xúc tiến an
định hòa bình. Gia đình là tế bào của xã hội,
là tổ chức cơ bản nhất. Nhà nhà hòa thuận thì
xã hội hòa thuận, đất nước giàu mạnh. Mọi
người đều phản tỉnh, đều biết khuyết điểm ở
chính mình. Nói người khác sai chính là sai
lầm to lớn. Ngày nay, đa số chúng ta phạm phải
sai lầm này. Người khác làm gì có sai lầm, đạo
lý này hiếm người hiểu được, chỉ có Phật Bồ
Tát hiểu. Vì sao nói người khác thảy đều không
có lỗi? Vì sai ở ngay chính chúng ta.
“Cảnh
tùy tâm chuyển”, tâm là tâm của chính mình,
bên ngoài là cảnh giới tùy theo tâm mình mà
thay đổi. Bên ngoài bất thiện do tâm ta bất
thiện, chính ta chuyển cảnh giới thành bất
thiện. Khi tâm thiện rồi, cảnh giới bên ngoài
chẳng phải thiện hết rồi sao? Cho nên hãy nghĩ
lại xem sai là do đâu, sai ở chính mình do
phiền não tập khí khởi hiện hành.
Giới-Định-Huệ không khởi hiện tiền, đức Phật
thường giảng trong đại kinh “tất cả chúng
sinh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai”,
trí tuệ đức tướng của chúng ta không thể hiện
bày, do tham sân si mạn, tự tư tự lợi,… khởi
hiện hành làm cho con người xảy ra xung đột,
còn nếu là trí tuệ đức hạnh tướng hảo thì sẽ
không xảy ra xung đột lẫn nhau. Vì chính tâm
chúng ta không tốt, trong tâm có tự tư tự lợi,
có danh vọng lợi dưỡng, có tham sân si mạn, có
năm dục sáu trần, nên sai lầm lớn là ở chính
mình. Trong kinh giáo đại thừa đức Phật thường
nói: “trong tự tánh thảy đều không có”.
Đại sư Huệ Năng là người khai ngộ, trong đàn
kinh ngài cũng nói “vốn dĩ không một vật,
chỗ nào dính bụi trần”. Trong tâm thanh
tịnh, trong chân như bổn tánh của chính mình
không hề có thứ gì, trong sạch thuần khiết,
chỉ có trí tuệ, đức tướng. Mê mất đi tự tánh
của chúng ta, đem trí tuệ biến thành phiền não,
đem đức năng biến thành ác trược, việc xấu nào
cũng làm, đem tướng hảo biến thành thô xấu,
biến thành đời ác năm trược, biến thành ba cõi
sáu đường, do đâu mà ra? Do chính chúng ta
biến hóa ra. Tự mình biến ra, tự mình hưởng
thọ, thì còn có thể trách ai.
Cho nên nói
sai là hoàn toàn sai ở chính mình. Thực tế hiện
tại mọi người đều sai, cả thế gian đều sai.
Do đó người giác ngộ rất khổ, người giác ngộ
không thể cứu nổi thế gian. Tuy nhiên người
giác ngộ có thể cứu chính mình, chúng sinh mê
hoặc cùng với người giác ngộ bất hòa, người
giác ngộ có thể hòa thuận với chúng sinh mê
hoặc, vì người giác ngộ không tranh với họ. Họ
muốn tiền, chúng ta đưa tiền, muốn danh đưa
danh, muốn thứ gì, ta cho thứ đó. Chúng ta
không mong cầu thì không xảy ra xung đột. Vì
cả hai cùng tham cầu nên mới xảy ra xung đột.
Người mê cho rằng nếu không tranh thì không
được, người trí hiểu rõ nhường nơi này, thì
lại được ở nơi kia, có khi còn được nhiều hơn
cái đã cho. Càng xả càng được nhiều, không cần
phải cầu. Đó là đạo lý đức Phật đã dạy nhưng
đáng tiếc, chúng sinh lại không tin.
Cầu vãng sinh
tịnh độ, thực hành xả bỏ
Chúng tôi đã
giảng điều này hàng trăm lần ngàn lần, nhưng
không có người nghe thấu, không có người chịu
làm theo. Chúng tôi vẫn phải giảng hàng vạn
lần, ai nhập tâm, y giáo phụng hành thì sẽ
được lợi ích. Nhiều năm giảng như vậy, chỉ
được số ít, khoảng ba hoặc bốn người làm theo.
Họ không tranh tài mà có thể xả tài. Không
luận làm sự nghiệp gì, họ đều kiếm được tiền,
trong khi người khác lỗ vốn. Ở đây cư sĩ Phó
là một trong số ít những người đó, họ cứ xả ra,
làm tài thí, pháp thí, vô úy thí, liều mạng mà
làm. Ở Đài Loan cũng có một hai người, ứng
dụng trong suốt mười mấy năm, nói với chúng
tôi rằng thật hiệu nghiệm, Phật không gạt
chúng ta. Bản thân chúng tôi cũng đã ứng dụng
qua 50 năm, thực chứng hiệu nghiệm.
Người thế gian
hy vọng được nhiều tiền của, hy vọng được
thông minh trí tuệ, được khỏe mạnh sống lâu,
mà không nghe lời đức Phật thì làm sao đạt
được sở nguyện. Mỗi ngày tâm không bình, tâm
oán hận, thì chẳng những không đạt được, mà
mạng càng ngày càng bị tổn hại. Sau khi chúng
tôi từ Nhật Bản trở về, nghĩ đến câu nói của
Lão tử: “Hòa đại oán, tất hữu dư oán, an
khả dĩ vi thiện”, có nghĩa “hóa giải
xung đột sâu nặng”, là yếu tố mỗi người
chúng ta đều phải có. Gia đình xung đột, vợ
chồng xung đột, rộng hơn nữa là xã hội, quốc
gia, chủng tộc, tôn giáo xung đột, nên hóa
giải xung đột là vô cùng cần thiết. Không hóa
giải thì phiền phức, đời đời kiếp kiếp oan gia
đối đầu, không hề ngừng dứt, đôi bên đều thống
khổ. Trong tâm thanh tịnh của chúng ta không
có xung đột, nên chỉ cần xuất hiện xung đột
nhỏ thì liền chướng ngại việc vãng sinh. Khi
sắp vãng sinh, oan gia trái chủ tìm đến bên
thân chúng ta để báo thù, không để chúng ta
vãng sinh, đó cũng chính là ma chướng mà chúng
ta thường nói đến.
Hôm qua,
chúng tôi gặp một người đến từ Malaysia, người
này bị ma dựa. Đây là trường hợp nghiêm trọng
nhất trong rất nhiều người bị ma dựa, chúng
tôi liền khuyên họ nên hóa giải, không hóa
giải đời đời kiếp kiếp đôi bên đều chịu khổ,
dày vò lẫn nhau. Thế gian này bao gồm cõi trời
và nhân gian đều loạn. Nhân gian không dễ ở,
cõi trời không dễ đi, tốt nhất vẫn là thế giới
cực lạc. Thế giới cực lạc có thể đến được, vạn
người tu vạn người được. Không chỉ Thích Ca
Mâu Ni Phật mà mười phương ba đời chư Phật
thảy đều khuyên bảo chúng ta cầu sinh Tịnh Độ,
nếu không tin tưởng, còn hoài nghi, thì đó là
ngu si tột đỉnh, là Nhất Xiển Đề, người không
có thiện căn mà kinh đã nói. Do đó chúng ta
tiếp nhận lời khuyên bảo của tất cả chư Phật,
ngay trong đời này nhất định phải sinh Tịnh Độ.
Đã quyết tâm sinh Tịnh Độ thì còn có thứ gì
không thể xả bỏ. Mọi thứ đều xả bỏ, không còn
so đo với người, sống được một ngày trên thế
gian thì cứ hoan hỉ với mọi người.
“Hằng
thuận chúng sinh tùy hỉ công đức”, chúng
sinh muốn thứ gì, tất cả đều tùy thuận, thì
khi lâm chung chúng ta mới đi được. Nhất là
những người trung niên trở lên, phải xem việc
này là việc lớn trong đời. Khi đến bảy mươi
tuổi thảy đều buông bỏ hết. Bản thân chúng tôi,
một đời này cũng chỉ hướng đến hai từ “buông
xả”, lời khuyên này hoàn toàn không dư
thừa, vì lời thừa là tạo khẩu nghiệp, gây ra
chướng ngại. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, 79 tuổi
nhập Niết Bàn, tính theo tuổi ta là 80 tuổi.
Thực tế thế gian này còn rất dài, nhưng bản
thân chúng tôi đang đứng trước ngưỡng tuổi này
nên cũng đã nghĩ đến lúc sắp ra đi. Khi chúng
ta có quan niệm chuẩn bị này thì mới có thể
buông bỏ, mới có thể không tranh với người. Ai
cần danh, ta cho danh, cần lợi ta đưa lợi,
muốn cả địa cầu này, chúng ta đều nhường tất.
Sau đó hân hoan vui vẻ ra đi, chúc phúc cho
người ở lại sống tốt và hòa thuận.
Đại sư Ấn
Quang dạy người cầu sinh Tịnh Độ bằng cách dán
chữ “Chết” lên trán để hàng giờ hàng
phút tâm niệm mình sắp phải ra đi, đừng nên
tranh giành, đấu đá. Cuộc đời như giấc mộng,
rỗng không. Sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã mà
đức Phật giảng trong suốt hai mươi hai năm
luôn lặp đi lặp lại câu “tất cả pháp không,
sở hữu hết thảy đều không”. Khi thật sự
thông hiểu, minh tường, tâm sẽ định, không còn
tranh đua. Tâm định khai trí tuệ, việc xuất
thế gian sẽ dễ dàng tường tận, đọc kinh cũng
dễ dàng liễu ngộ.
Chúng ta
không những phải xả cả địa cầu này, xả cả cõi
dục, cõi vô sắc, mà còn phải xả luôn mười pháp
giới. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật tất
cả đều phải xả. Rời mười pháp giới mới có thể
đến được Nhất Chân Pháp Giới, đây chính là sự
buông bỏ mà Đại sư Chương Gia đã dạy chúng tôi.
Vì sao chúng ta không ra khỏi được mười pháp
giới? Vì chúng sinh sáu cõi không thể thoát
khỏi luân hồi, họ không chịu xả luân hồi, đó
là sai lầm. Trong pháp giới vốn dĩ không có
những thứ này. Những thứ này là từ vọng tưởng,
phân biệt chấp trước biến hiện ra, nên chúng
uyển tưởng, không có gì là chân thật. Chúng ta
lấy giả cho là thật, cái thật thì lại hoàn
toàn không biết. Rất đáng thương. Hiện tại
chúng ta tuy ở trong vòng lẩn quẩn của sáu cõi,
nhưng nếu muốn giúp chúng sinh cũng trong vòng
lẩn quẩn, thì chúng ta phải thật sự hy sinh
cống hiến bằng cách y giáo phụng hành. Hãy là
tấm gương cho người noi theo.
Đời sống
của bản thân chúng tôi rất thoải mái, nhiều
hạnh phúc, bởi vì chúng tôi buông bỏ được.
Trước lời hủy báng, chúng tôi cảm kích và thật
tâm tán thán. Vì sao tán thán? Vì người hủy
báng chính là ân nhân giúp ta tiêu nghiệp
chướng. Nghiệp chướng nếu không thể tiêu, về
sau cũng phải tiêu ở ba đường ác. Ba đường ác
từ nghiệp chướng của chúng ta mà biến hiện ra.
Ác nghiệp ác chướng nhất định phải tiêu, không
tiêu không thể kiến tánh. Ba đường thiện cho
chúng ta tiêu phước. Phước cũng phải tiêu, ác
cũng phải tiêu. Sáu cõi không gì khác đó là
tiêu nghiệp. Đến ba đường thiện để tiêu nghiệp
thiện, ba đường ác để tiêu ác nghiệp. Tâm
thanh tịnh không có ác cũng không có thiện,
gọi là “chân thiện”. Trong kinh, đức
Phật gọi “thiện nam tử, thiện nữ nhân”,
ám chỉ người thiện ác đều không có, đó là chân
thiện. Vì vậy không nên nhầm lẫn, thiện ác chỉ
là tương đối trong sáu cõi luân hồi. Khi trở
thành Phật Bồ Tát thì thiện đó là “thuần
thiện”.
“Thanh tịnh
bình đẳng giác”
Ngày nay số người
hoằng pháp, người tu hành quá ít. Người hoằng
pháp phải thật tu, không chỉ chuyên tâm học
kinh giáo mà còn phải dấn thân phục vụ thì
mới có thể dạy người, giáo hóa chúng sinh.
Thân phận xuất gia và tại gia là như nhau,
hoàn toàn bình đẳng. Năm xưa Thế Tôn còn tại
thế đã thị hiện cho chúng ta xem: một vị là
Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện Phật xuất gia,
một vị là cư sĩ Duy Ma thị hiện Phật tại gia.
Đó là hai vị Phật đồng thời ở thế gian. Hai vị
này địa vị bình đẳng, không hề khác biệt. Tại
gia và xuất gia có thể thành Phật như nhau, có
thể hoằng pháp lợi sinh, phổ độ chúng sinh như
nhau. Kinh Duy Ma Cật, các đệ tử lớn của Thế
Tôn: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp,…
nhìn thấy cư sĩ Duy Ma liền đảnh lễ ba lạy,
nhiễu quanh phía hữu ba lần.
Điều đó cho
thấy, do chúng ta si mê hoặc điên đảo, có phân
biệt, chấp trước, khi vừa xuất gia mặc áo tu
sĩ thì liền xem thường người tại gia. Thật sai
lầm! Cho nên người xuất gia ngày nay tạo tội
nghiệp nặng hơn thời trước. Nhiều vị tu hành
không bằng người tại gia do không hiểu được
đạo lý này, cho rằng khi vừa mặc y áo vào thì
trở thành bậc bề trên, hơn tất cả, không ai có
thể so sánh được. Tâm ngạo mạn đã sinh thì tội
nghiệp này sẽ rất nặng, chướng đạo bám theo.
Phật pháp là bình đẳng, kinh Vô Lượng Thọ nói
“thanh tịnh bình đẳng giác”, không bình
đẳng với người là một sai lầm. Chúng ta phải
cảm tạ Phật Bồ Tát đã thị hiện như tấm gương
để chúng ta xem thấu.
Chúng ta
nghe kinh đều biết, không tu mười hạnh Phổ
Hiền thì không thể viên thành Phật đạo. Thứ
nhất “Lễ kính chư Phật”, chư Phật đó
chính là tất cả chúng sinh, là quá khứ Phật,
hiện tại Phật, và vị lai Phật. Chúng sinh là
vị lai Phật, muỗi kiến đều là Phật. Ai không
đồng tình ý niệm này thì “Lễ kính chư Phật”
không cách gì tu được. Chỉ trừ riêng ta là một
phàm phu, tất cả đều là Phật, tình dữ vô tình
đều là Phật, nghĩ như vậy mới có thể tu hạnh
Phổ Hiền. Chúng ta không vừa mắt cái này, thấy
khó chịu cái kia thì làm sao có thể thành tựu
“thanh tịnh bình đẳng giác” ở hiện tiền.
Hạnh Phổ Hiền chính là “thanh tịnh bình
đẳng giác”. Đã tu hạnh Phổ Hiền thì trong
gia đình cũng không còn cảnh bất hòa xảy ra,
vì đã xem người nhà của mình đều là Phật, đều
là Bồ Tát, chỉ mình ta là phàm phu, nghiêm
cung kính cẩn họ thì oan kết gì cũng đều được
hóa giải.
Xung đột
chỉ phát sinh khi ta cảm thấy mình được, người
khác không được, xem thường họ. Do đó câu nói
của Lão tử “Hòa đại oán tất hữu dư oán”,
tu hạnh Phổ Hiền thì dư oán không còn, oan kết
được triệt để hóa giải gọi là “lễ kính”,
cung kính tất cả. Thường ngày chúng ta bái sám
đều mở sám văn chỉ biết tụng niệm làu làu
nhưng không ứng dụng hành trì, vẫn còn vừa mắt
cái này, ghét bỏ cái kia, như thế là gạt mình
gạt người. Trên gạt Phật Bồ Tát, dưới gạt tất
cả chúng sinh, giữa gạt chính mình, làm gì có
công đức. Sám hối như vậy không được hiệu quả
gì, tâm không chuyển đổi không bằng niệm câu A
Di Đà Phật.
“Xưng
tán Như Lai”, vậy đối với tất cả chúng
sinh chúng ta có phải xưng tán không? Chư Phật
từ trên tướng mà nói, không có phân biệt, cho
dù chúng sinh là thiện hay ác, đều bình đẳng
lễ kính. Nhưng xưng tán Như Lai thì có khác
biệt. Như Lai từ nơi “Tánh” mà nói,
tương ưng với tánh đức là thiện, cần xưng tán;
không tương ưng với tánh đức là bất thiện, bất
thiện thì không nói, không hủy báng, cũng
không tán thán. Bồ tát Phổ Hiền đối nhân xử
thế tiếp vật như vậy, ai tạo ác lớn, ngài
không nói một câu; ai tạo việc thiện dù rất
nhỏ, ngài liền tán thán. Chúng ta nên theo đó
mà ứng dụng. Mỗi ngày chúng ta tụng “Nhất
giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như
Lai, Tam giả quảng tu cúng dường…”, chúng
tôi thấy thế thường hay cảm thán rằng “ngày
ngày gạt Phật Bồ Tát”. Thời khóa sớm tối,
sáng sớm gạt một lần, buổi tối lại gạt tiếp
lần nữa. Mỗi ngày đều đặn gạt không thiếu một
thời. Như vậy phỏng có công đức gì? Cho nên
phiền não ngày một nhiều hơn, năm sau nhiều
hơn năm trước, trí tuệ không khai mở, ngu si
càng tăng.
Thực làm, sống
mẫu mực, bền bỉ hóa độ chúng sinh
Lão cư sĩ Hạ Liên
dạy chúng ta không gì khác hơn chỉ một câu nói
“thật làm”, Phật dạy thế nào thì ta làm
như thế đó, không nên quản việc người. Người
khác có làm hay không không liên quan đến
chúng ta. Người khác là tâm luân hồi, tạo
nghiệp luân hồi, nếu chúng ta giống họ, vậy
chẳng phải tiếp tục tạo nghiệp luân hồi, tiếp
tục hướng vào ba đường ác mà đi. Chúng ta nhất
định phải y theo giáo huấn của kinh luận. Phật
dạy chăm chỉ nỗ lực hành trì. Bắt đầu từ tam
phước, sáu phép hòa, mười nghiệp thiện mà làm.
Làm không được thì các thứ khác không cần phải
nói. Về già tự suy xét mình đã làm được hay
chưa? Tam phước: “Hiếu thân tôn sư, từ tâm
bất sát, tu thập thiện nghiệp” đã làm được
chưa? chưa được thì phải học, “sống đến già,
học đến già, học không hết”, nỗ lực mà học.
Phải bắt đầu
từ gia đình, người học Phật là người mô phạm
cho người khác, là mô phạm cho cả gia đình, là
gia đình tốt nhất trong tất cả gia đình trên
thế giới. Chúng ta học Phật mà không cảm hóa
được người nhà thì việc học Phật đó không
thành công. Cuộc đời chúng tôi đều gửi nơi nhà
người, bản thân không có đạo tràng, đều ở nhờ
người khác, phải nghe người khác, thực tập “hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Sau
khi rời Singapore, hiện tại ở Châu Âu xây dựng
một đạo tràng nhỏ, trong đó khoảng vài chục
người ở. Hiện tại chúng tôi đang dạy họ,
khuyên họ đối đãi bình đẳng, hòa thuận với
nhau. Nếu họ không hòa thì đạo tràng đó chúng
tôi xin tặng cho họ, tự mình sẽ đi tìm nơi
khác. Vì họ không hòa thuận, xem như giáo học
của chúng tôi thất bại triệt để, còn mặt mũi
nào xuất hiện nơi đó nữa. Tặng họ nơi đó để
báo ân Phật tổ, báo ân Quán Trưởng Hàn, người
tiếp nhận họ vào. Sau khi bà vãng sinh, những
người này đã không có chỗ để đi. Chúng tôi sẽ
lo cho họ được an ổn, giao phó rồi sẽ tự đi
tìm chòi tranh nhỏ, đạm bạc tình đồng đạo,
cuối đời cùng nhau tu học.
Cho nên
chúng tôi rất mong muốn áp dụng giáo huấn của
Đại sư Ấn Quang vào thời đại này, đạo tràng
chỉ nên nhỏ, không vượt quá hai mươi người,
không hóa duyên, không làm pháp hội, không làm
kinh sám Phật sự, mọi người chỉ cùng ở với
nhau chăm chỉ niệm Phật, một lòng một dạ cầu
sinh Tịnh Độ. Người thực sự hữu duyên, có thể
buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, cùng tu học
với nhau. Chúng tôi ở thế gian này, nhiệm vụ
chân chính là giảng kinh thuyết pháp, đem kinh
điển giảng giải tường tận, giới thiệu đến mọi
người, cho nên việc giảng kinh không thể gián
đoạn. Chúng tôi muốn lập chòi tranh nhỏ, một
tịnh xá nhỏ, trong đó có một góc thu hình,
hiện tại thể lực có thể giảng bốn giờ mỗi ngày,
chúng tôi sẽ tiếp tục giảng trong đạo tràng
nhỏ này. Sau đó thu đĩa, giao đến khắp nơi để
mọi người cùng xem. Đó là báo ân Phật, báo ân
chúng sinh. Tu hành là việc của chính mình,
hiện tại phải nỗ lực, không nên giải đãi. Vì
khi giải đãi, thì việc vãng sinh bị chướng
ngại, cho nên việc gì cũng phải thật làm.
Truy nguồn gốc
của xung đột để tìm cơ sở hóa giải
Sau khi từ Nhật
Bản trở về, chúng tôi đã viết ra bức hoành gồm
hai câu của người xưa: “Đồ tri hòa kỳ đại
oán, nhi bất tỉnh kỳ đại oán chi sở do hưng”,
có nghĩa là chúng ta chỉ biết hóa giải tranh
chấp, xung đột nặng nề mà không biết được cội
gốc của tranh chấp xung đột ở nơi đâu. Câu thứ
hai là “Tuy hòa chi dĩ chí công, nhi bất
miễn hữu dư oán”, có nghĩa là dùng công
bình, công chánh để hòa giải. Bức này in xong
sẽ tặng đến mọi người.
Tình huống
“bằng mặt nhưng không bằng lòng”, ngoài
mặt đã hóa giải nhưng trong lòng vẫn còn oán
hận, vịêc này sẽ khó. Oán hận của chúng ta
sinh ra từ tình chấp, cảm tình chấp trước.
Tình chấp do mê mất đi bổn tánh. Trong bổn
tánh không có tình chấp, mê mất đi bổn tánh
mới sinh tình chấp. Cái tình này chính là phân
biệt, chấp này chính là chấp trước mà kinh
giáo Đại thừa gọi là tám thức, 51 tâm sở.
Trong tám thức, A Lại Da là khởi tâm động niệm,
Mạt Na là chấp trước, thức thứ sáu là phân
biệt, cũng là tình chấp. Sau khi mê mất đi tự
tánh, đem tự tánh biến thành tám thức, gọi là
tình chấp. Trong A Lại Da gom chứa từ vô lượng
kiếp đến nay kết thành chủng tử. Vì vậy cái dư
oán này không thể hóa giải. Tự tánh vốn không
mê vọng, làm gì có oan kết. Cho nên muốn hóa
giải oán kết, mỗi người đều phải tu phá phẩm
vô minh, chứng một phần pháp thân, đến cảnh
giới báo độ của chư Phật, “thật báo trang
nghiêm độ của Chư Phật”. Đây gọi là giải
quyết triệt để cứu cánh viên mãn, việc này
tương đối khó.
Ngoài ra
còn phương pháp khác, đó chính là mang nghiệp
vãng sinh, sinh đến thế giới Tây phương cực
lạc, thì vấn đề này cũng được giải quyết cứu
cánh viên mãn. Cho nên câu nói của Lão tử,
chúng ta biết, ngay trong một đời này, nếu
không sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc thì
rất khó hóa giải. Vì cái tình kết trong A Lại
Da thức không thể khai mở. Chúng ta xung đột
với tất cả chúng sinh trên thế gian, phiền
phức rất lớn, đời đời kiếp kiếp khổ không nói
ra lời. Chúng ta có thể đi đến thế giới Tây
Phương cực lạc, sau khi đi sẽ trở lại, thừa
nguyện tái lai, giúp đỡ những chúng sinh khổ
nạn. Tình kết mê đã quá nặng, là gốc của khổ
nạn, chúng ta đến giúp đỡ, làm người hòa giải.
Chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở mười pháp giới không
gì khác hơn là làm người hòa giải.
Cho nên câu
thứ nhất này, “Đồ tri hòa kỳ đại oán, nhi
bất tỉnh kỳ đại oán chi sở do hưng”, ý tứ
sâu sắc vô cùng, cho thấy việc học Phật nếu
không thành tựu thì không thể giải quyết được
vấn đề của chính mình.
Vua Thương
Thang, một bậc thánh nhân đã từng nói “Vạn
phương hữu tội, tội tại trẫm cung”, người
trong thiên hạ có tội, tội đó do ta. Bởi vì
ông là quốc vương, nhân dân có tội, cũng vì
quốc vương không dạy tốt. Chúng ta thể hội ý
này, quay đầu nhìn lại gia đình mình. Một
người trong gia đình không tốt, thì chính ta
có tội, không thể trách cha mẹ, anh chị em.
Giác ngộ mà không thể cảm hóa được người nhà
thì có tội, lỗi ở chính mình. Thánh nhân không
giống người thường. Người thường quy đúng về
ta, quy lỗi cho đối phương, như vậy là đại tội,
không tội nào nặng hơn. Người lãnh đạo bất cứ
đoàn thể nào, đoàn thể không tốt thì người
lãnh đạo có tội. Trách nhiệm của người lãnh
đạo gói gọn trong ba chữ: “Quân, Thân, Sư”
Chỉ cần làm tròn ba chữ này, công đức vô lượng.
Quân là lãnh
đạo, kế hoạch chiến lược, dẫn dắt. Thân là chăm
lo, nuôi dưỡng. Sư là giáo dục, nếu giáo dục
không tốt, chúng ta không thể giải quyết vấn
đề đời sống của nhân dân, không thể lãnh đạo,
tội lỗi sẽ rất nặng. Lời nói của vua Thang rất
có đạo lý, người lãnh đạo các cấp trong xã hội
nên hiểu ý này. Ngoài ra Trang tử, là một dân
thường cũng nói “dĩ đắc vi tại nhân, dĩ
thất vi tại kỷ”
Trong hội
nghị ở Cang Sơn chúng tôi đã dẫn hai câu nói
trên, nếu chúng ta làm công tác hòa bình thì
phải chuyển đổi quan niệm, người khác đều đúng,
lỗi lầm là chính mình. Nói người khác sai là
ta sai, người khác đúng là ta đúng. Những
người tham dự sau khi nghe rất cảm khái và cho
rằng quá khó. Khó cũng phải làm. Đây chính vì
thế giới an định hòa bình mà cống hiến. Chỉ
nói trên miệng, kêu gọi hòa bình, kêu gọi an
định, thì hòa bình an định không thể được thực
hiện. Người làm công tác hòa bình cần ưu tư
điều này. Trung quốc có một thánh nhân là vua
Thuấn, vua Thuấn nhìn thấy mọi người đều đúng,
chỉ có mình sai, cho nên mỗi ngày phản tỉnh,
mỗi ngày thay đổi, tự làm mới, trở thành đại
thánh nhân.
Cuối cùng,
tất cả chúng ta hãy đồng khích lệ lẫn nhau.
Người xưa nói “nhiên tắc thánh nhân, thường
thọ thiên hạ chi trách” là người tốt, học
thánh hiền, đi con đường chánh pháp, ắt sẽ có
nhiều người đố kỵ, hủy báng, nhục mạ, chúng ta
phải chịu trách cứ của thiên hạ, không nên
phát khởi oán hận trách cứ người khác thì oán
hận từ vô lượng kiếp mới có thể hóa giải được.