Các học trò trả lời: “Nước mắt đổ ra nhiều hơn”.
Đức Phật tỏ ra vui vẻ, vì học trò của mình đã trả lời đúng,
chúng ta từ vô số kiếp đến nay, đã bao lần khóc vì mẹ cha chết, con cái chết,
bạn bè thân thuộc, cùng người mình yêu thương ly biệt... thu thập tất cả dòng
nước mắt ấy lại nhiều hơn nước trong bốn bể.
Có tình dục là có đau khổ, bi ai, nước mắt chảy. Tình dục đúng
là gốc của đau khổ. Cái khổ đó là do chấp trước. Chấp trước vào tình dục cho
nên đau khổ.
Nếu anh có người bạn, bị người yêu là nam hay nữ từ bỏ, anh
không cảm thấy đau khổ, nhưng nếu bản thân anh bị người yêu là nam hay nữ từ
bỏ, anh sẽ cảm thấy rất đau khổ, bởi vì anh cảm thấy đối phương, tức người mình
yêu là “của anh”. Nhưng sự thực không phải như vậy, đối phương không phải là do
anh đẻ ra, dựa vào đâu mà nói rằng là “của anh”, thân thể, tư tưởng, ý nghĩ đều
là của cô ta, đâu phải là của anh. Chỉ cần anh nhận thức rõ, cô ta không phải
là của anh, thì anh sẽ bớt đau khổ. Anh khổ là vì anh chấp trước cô ấy là của
anh.
Vì sao chúng ta đau khổ khi phải từ bỏ thế giới này? Là vì
chúng ta không muốn từ bỏ cái thân này. Nếu chúng ta không chấp trước cái thân
này, chúng ta sẽ không đau khổ. Có rất nhiều thanh niên vì thất tình nên đến
tìm tôi. Trong số này, có người muốn quyên sinh để làm cho người mình yêu khổ
cả đời. Tôi trả lời: “Anh tự tử thì chỉ có anh đau khổ mà thôi. Người yêu của
anh đâu có khổ, nếu cô ta là người tốt thì có chịu khổ nữa năm cũng chịu không
nổi. Còn các cô gái khác thì đại khái khổ một tháng hoặc nửa tháng, hay là đi
viếng anh một bó hoa trắng. Nếu người yêu định sớm từ bỏ anh mà anh tự sát, thì
có khác nào cô ta cởi bỏ gánh nặng, mừng thầm trong bụng”.
Cái vui, cái buồn của một người, do chính người ấy làm chủ.
Cái vui, cái buồn của người khác làm sao chúng ta khống chế được. Chúng ta đau
khổ là vì chúng ta tưởng có thể làm chủ được sự đau khổ của người khác. Kỳ
thực, tự sát chỉ là mình tự làm khổ mình, người khác không đau khổ. Bạn trai,
bạn gái của người thất tình mà tự sát, về sau đều kết hôn, lấy vợ, lấy chồng cả
và sống hạnh phúc.
Vì bản chất tình dục là thống khổ, cho nên tình dục vĩnh viễn
không thể nào thỏa mãn đầy đủ được. Đau khổ là có chấp trước. Không phải chỉ có
chúng ta là phàm phu mới chấp trước. Có những người tu hành rất tốt cũng chấp
trước.
Trong kinh “A Hàm” kể một câu chuyện rất thú vị: Sau khi đức
Phật Thích Ca thành đạo, có rất nhiều đệ tử đi theo Ngài. Nhưng, trong đó, có
rất nhiều người vẫn còn chấp trước. Người xuất gia không có gì làm vui, có
người thu thập nhiều bát ăn, có bát bằng vàng, bằng bạc, bằng ngọc, mỗi ngày
đổi dùng một bát. Phật Thích Ca biết được bèn răn dạy người học trò đó không
được chấp trước vì ngay cái bát ăn cơm mà không xả được thì làm sao có thể giải
thoát?
Những vấn đề giống như vậy rất là nhiều. Trong số người học
Phật, có người rất thích sưu tầm tượng Phật, trong nhà có tới hàng trăm tượng
Phật, có người thu thập nhiều vòng tràng hạt, nhưng lại không niệm Phật, kiểu
chấp trước như vậy rất là nhiều.
Người tu hành theo Tiểu thừa, thì nhờ đoạn trừ tình dục mà
được giải thoát. Còn người tu hành theo Đại thừa thì dùng phương pháp khác. Họ
nói: “Phiền não tức Bồ đề; không đoạn trừ hết thẩy tình dục mà vẫn chứng được
trí tuệ Bát nhã, không đoạn trừ phiền não mà vẫn chứng được NiếtBàn. Nói một
cách nôm na, tức là triển khai tâm địa rộng lớn để chuyển hóa sự chấp trước của
tình dục, dùng “tính không” của trí tuệ để “bao dung” tất cả mọi phiền não, chứ
không phải là trực tiếp đoạn trừ phiền não.
CHUYỂN HÓA TÌNH DỤC
Phật giáo Đại thừa không đoạn trừ phiền não, khô ng đoạn trừ
tình dục, mà là chuyển hóa tình dục, cũng tức là lấy trí tuệ Bát Nhã để chuyển
hóa tham, sân, si.
Bồ Tát thường giảng 8 chữ: “Đồng thể đại bi, vô duyên đại
từ”. Đó chính là nói về chuyển hóa tình dục, khuyên chúng ta không phải đoạn
trừ cha mẹ mình, như vậy là khác với việc đoạn trừ tình cảm đối với cha mẹ.
Chúng ta có thể yêu thương cha mẹ, nhưng đối với mọi người,
chúng ta cũng yêu thương như cha mẹ chúng ta vậy. Thương yêu con cái mình, cũng
phải thương yêu con cái của thiên hạ.
Dùng phương pháp đó để chuyển hóa tình dục và phiền não, tức
là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.
Khi một người mở rộng và chuyển hóa lòng từ bi và trí tuệ thì
tình dục cũng tùy theo mà được chuyển hóa.
Rất nhiều người tu hành theo Mật Tông. Mật Tông có một vị Hộ
Pháp lớn nhất gọi là “Ma hợp Hạt Lai Đại hắc thiên”. Ông ta trước khi tu hành
vốn là một người rất hung bạo và hay giận dữ, Bồ Tát Quan Thế Âm muốn độ cho
ông bèn hóa thân làm vợ ông để chuyển hóa ông. Sau khi được chuyển hóa, ông giữ
tính tình hung bạo và hay giận giữ, nhưng ông lại là vị Hộ Pháp rất vĩ đại của
Phật giáo. Theo lời kể thì mỗi lần ông ta xuất hiện đều có mưa đá từ trên trời
dội xuống, cục đá nào cũng rất to làm cho tất cả tà ma ngoại đạo phải sợ hãi bỏ
chạy, nghe tên ông, tiếng ông tất cả đều sợ hãi khiếp đảm.
Ở Ấn Độ cổ đại hay Trung Quốc cổ đại người tu hành thường có
phong cách rất trong sáng như Bồ Tát Quan Thế Âm là người hết sức từ bi, Bồ Tát
Văn Thù là người rất có trí tuệ , đó là không phải đoạn trừ nhân cách mà là
nâng cao hoàn thiện nhân cách.
Chuyển hóa nhân cách, không phải là đoạn trừ nhân cách cho
nên trong lịch sử, các Thiền sư đều là những người rất sống động và có phong
cách cá biệt. Có người thì mềm mỏng, nhu hòa, có người thì như ù ù cạc cạc, có
người thì la hét đánh gậy. Trong sách Thiền tông, thậm chí có ghi trường hợp
thầy cắt ngón tay học trò, nhảy xuống từ vách núi cao, cắt bắp vế v.v... những
Thiền sư đó đều có phong cách vĩ đại. Vì họ đã chuyển hóa được nhân cách, tình
cảm của mình, đồng thời cũng duy trì đặc tính của mình.
Nếu đoạ n trừ hoàn toàn phong cách vốn có của mình để được
giải thoát, thì mọi người sẽ giống nhau tất cả.
Người con hiếu thuận với cha mẹ, không rời bỏ cha mẹ mình
được, thì cũng không rời bỏ cha mẹ thiên hạ được. Người cha yêu thương con cái
của mình, không rời bỏ con cái của mình được, có thể hay không, cũng không rời
bỏ con cái của thiên hạ. Không rời bỏ được chồng vợ, thì cũng một lòng thương
yêu chồng vợ người khác! Đó gọi là chuyển hóa tình dục, mở rộng lòng từ, lòng
bi và trí tuệ .
Thiền sư Hoàng Bích rời bỏ bà mẹ cô đơn của mình, dù trong
lòng có chút vướng mắc. Nhưng ông nghĩ tới chúng sanh, chúng sanh cũng có mẹ,
chứ không phải riêng mình có mẹ phải cứu độ. Đó chính là tâm trạng của người tu
theo Đại thừa: Không quên người mẹ của thiên hạ. Một thí dụ của bậc tu hành đã
giác ngộ rồi mà không để mất cuộc sống tình cảm, là Phật Thích Ca.
Sau khi thành đạo, Phật đã nhiều lần trở về tổ quốc cứu độ
cho cha rồi lại lên cõi trời, cứu độ cho mẹ! Sau lại cứu độ cho em, cho vợ, cho
con. Nhờ vậy mà về sau, cả nhà đều theo Ngài xuất gia.
Phật không có đoạn trừ tình cảm trong lòng mình, không những
hóa độ cho người nhà mà còn hóa độ cho tất cả chúng sanh.
Sau khi Phật Thích Ca thành đạo, cả nhà đều theo Ngài xuất
gia, chỉ trừ có người em là Nan Đà, là người duy nhất còn ở lại để thừa kế ngôi
vua, cho nên vua Tịnh Phạn rất lo lắng và sợ Nan
Đà xuất gia. Vua quản Nan Đà rất chặt, bắt Nan
Đà suốt ngày trong hoàng cung. Vợ Nan Đà cũng rất nghiêm, mỗi lần Nan Đà ra
khỏi cung, nàng đều điểm trên trán một điểm son, quy định trước khi son khô thì
Nan đà phải trở về cung. Vợ Nan Đà là người rất xinh đẹp, được Nan Đà hết lòng yêu thương. Để người vợ khỏi phải lo
lắng, Nan Đà mỗi lần ra vào cũng đều rất khẩn
trương, tất bật.
Một ngày, Phật Thích Ca biết nhân n xuất gia của Nan Đà đã chín muồi, bèn đến trước hoàng cung khất thực. Nan Đà dự định cầm bát thức ăn đi ra để cúng dường thì vợ
không chịu. Hai bên cãi nhau một hồi, cuối cùng, theo lệ thường, người vợ điểm
trên trán Nan Đà một điểm son, quy định Nan Đà xong việc phải về ngay, không
được bắt chuyện với Phật Thích Ca.
Nan Đà không có bắt chuyện với Phật Thích Ca, nhưng Phật bảo
Nan Đà đi theo mình, và Nan Đà đi theo. Đi
được một vài bước, bèn xóa sạch điểm son trên trá n mình và theo Phật xuất gia.
Sau khi xuất gia, Nan Đà rất nhớ vợ, Phật bèn hỏi vì sao Nan
Đà nhớ vợ đến thế. Nan Đà trả lời: “Cô ta đẹp
quá đẹp không ai bằng”. Phật bèn đưa Nan đà đi Đông Hải chơi, thấy xác một phụ
nữ còn đẹp hơn vợ của Nan Đà nữa. Phật bảo Nan Đà : “Chú có thấy không? Cô gái này hết sức đẹp: con
dòi trên mặt cô ta chính là cô ta biến thành vì cô ta tự cho mình quá đẹp,
không từ bỏ sắc đẹp ấy được, cho nên sắc đẹp là cái không nên nương tựa”.
Qua sự việc xảy ra, Nan Đà
nỗ lực tu hành nhưng lòng nhớ vợ vẫn không nguôi. Phật Thích Ca thấy Nan Đà còn
thích sắc đẹp, bèn đưa Nan Đà lên các cõi
Trời. Thiên nữ trên cõi Trời người nào cũng đẹp hơn vợ Nan
Đà hàng nghìn vạn lần. Nan Đà hỏi: “Có nhiều
thiếu nữ xinh đẹp dường này; sao lại không có nam giới”. Một thiên nữ trả lời:
Có chứ, nhưng anh ta chưa lại, anh ta tên là Nan Đà, hiện nay anh Nan Đà đang cùng với người anh trai tu hành ở Ấn Độ. Năm
trăm thiên nữ chúng tôi đều thuộc về anh ta”. Nan
Đà nghe xong liền kéo tay Phật Thích Ca về, và ra sức tu hành, hy vọng sau khi
chết, sẽ được tái sanh lên cõi Trời. Phật Thích Ca biết động cơ tu hành của Nan
Đà không chân chính, bè n đưa Nan Đà xuống địa
ngục, thăm viếng những cảnh khổ sở bi thảm ở đấy. Khắp nơi, ở địa ngục đều đầy
rẫy các cảnh lửa thiêu đốt rét cắt da, dao kiếm v.v... hành hạ con người. Đang
đi, Nan Đà thấy một vạc dầu, hai bên có hai
con quỷ nhen đỏ lửa. Trong vạc, dầu đang sôi sục, nhưng không thấy ai đến. Nan Đà hỏi: “Các ông chờ đợi ai đó?” Một con quỷ trả lời:
“Chúng tôi đang đợi một người tên Nan mà anh
ta hiện đang tu hành cùng với một người anh trai ở Ấn Độ. Anh ta tu hành là để
hưởng thụ các tiên nữ trên cõi trời. Vì vậy, sau khi anh ta ở cõi trời 500
kiếp, sẽ phải đọa địa ngục và rơi vào vạc dầu này”. Nan
Đà nghe nói hoảng quá, từ đó về sau chăm chỉ tu hành, cuối cùng chứng quả A La
Hán.
Chuyện Nan Đà cho chúng ta bài hai học:
Một, đừng có vì tình dục mà tu hành. Người tu hành không nên
có mong cầu riêng gì.
Hai, cõi Trời, Địa ngục, Tịnh Độ, cõi Người, tuy rằng chúng
ta cảm giác là những không gian khác nhau, thế nhưng những không gian đó thực
rađồng thời cùng tồn tại đối với một con người, tùy theo tâm trạng của người
đó.
Thí dụ chúng ta đang sống ở không gian cõi người, nhưng tâm
chúng ta lại đầy lửa sân như ở địa ngục và liên tục mãi như thế, thì sau khi
chết, chúng ta ắt phải đọa địa ngục. Trái lại, sống ở cõi người mà tâm chúng ta
thanh tịnh siêu thoát như ờ cõi Trời, thì sau khi chết, ất chúng ta sẽ tái sanh
lên cõi Trời. Vì vậy cho nên sống ớ cõi người này, trong vấn đề tình dục chúng
ta phải cảnh giác, đừng để bị lửa địa ngục nung nấu như ở địa ngục, chúng ta sẽ
có tâm trạng địa ngục và sau khi chết sẽ bị đọa địa ngục.
Các vị Bồ Tát, dù sống ở không gian nào, cũng đều giữ vững
tâm niệm hóa độ chúng sanh, dù chúng sanh có duyên hay không có duyên.