Đáp:Sợ
hãi là một hiệu ứng của tâm lý, một trạng thái tâm lý bất an, lo sợ,
kinh hãi… xuất hiện và tồn tại nơi cuộc sống của mỗi chúng sinh từ khi
lọt lòng cho đến lúc xuôi tay, nhắm mắt. Có những khi sức lực ta còn
tràn đầy, tương lai rộng mở, cơ hội tốt nhất luôn kéo đến với ta; lúc ấy
ta tưởng chừng như không còn sợ hãi nhưng kỳ thực nỗi sợ vẫn còn âm ỉ
bên trong chúng ta, được ngụy trang dưới hình thức này hay hình thức
khác. Có thể nói trong suốt cuộc đời, chúng ta phải đối diện với nhiều
nỗi sợ hãi khác nhau và cấp độ của chúng cũng không như nhau.
Lúc còn bé, chúng ta sợ “ma”, sợ những sinh thể hình thù kỳ dị theo
sự tưởng tượng của óc non nớt trẻ thơ. Khi lớn lên, có đôi chút hiểu
biết thì những nỗi sợ này không còn ám ảnh ta nừa nhưng đồng thời có
những nỗi sợ hãi lớn hơn phủ chụp lấy ta: sợ thiếu ăn, sợ mất việc làm,
sợ gia đình ly tán, sợ bệnh tật, sợ chiến tranh, sợ chết… cùng Vô vàn
những nỗi sợ hãi khác.
Từ đây có thể thấy, cuộc sống của con người
vốn dĩ đã khổ đau lại càng đau khổ hơn thêm vì luôn chất ngất những nỗi
sợ hãi, luôn sống trong sợ hãi. Cho nên, làm cho mọi người hết sợ chính
là giúp họ vượt thoát một phần khổ đau và đây cũng là mục tiêu rốt cùng
mà giáo lý Vô úy thí nhắm đến.
Vô úy là không sợ hãi, cũng còn gọi là Vô sở úy, Vô bố úy. Bố thí Vô
úy tức là trang bị cho mọi người, cho chúng sinh năng lực không còn sợ
hãi. Muốn thực hiện pháp thí này, yêu cầu trước hết là hành giả phải tự
trang bị cho mình khả năng thắng vượt tất cả những nỗi sợ hãi. Muốn
thoát khỏi lo sợ, điều đầu tiên là phải biết nguyên nhân, nguồn gốc các
nỗi sợ và can đảm đối diện với chúng.
Theo giáo lý đạo Phật, căn nguyên của mọi khổ đau trong đó bao hàm
những nỗi sợ hãi, đều bắt nguồn từ Vô minh (không hiểu biết, không nhận
chân được thực tướng của mọi sự vật và hiện tượng). Vì Vô minh nên không
nhận thức đúng đắn về cái Tôi, về chính ban thân mình. Cái Tôi hay Tự
ngã thực ra chỉ là một tổ hợp của Ngũ uẩn. Chính năm yếu tố Thận thể(
Sắc), Cảm giác (Thọ), Tri giác (Tưởng), Tư duy (Hành) và Nhận thức
(Thức) kết hợp một cách hài hòa để tạo ra con người, cái Tôi. Một điều
cần phải thấy rằng, cái thế giới được con người nhận thức được thông qua
ngũ quan chỉ là một phần rất nhỏ của thế giới thực tại. Do đó, luôn tồn
tại nơi con người một nhận thức cố hữu: Đây là Tôi và thế giới của Tôi.
Nhưng thực chất không có cái Tôi trường tồn, bất diệt; không có cái Tự
ngã thuần nhất, bất biến và càng không có cái thế giới vĩnh cửu, thường
hằng.
Tất cả đều đang vận động, sinh diệt, trôi chảy và thay đổi trong từng
phút, từng giây, thậm chí trong mỗi sát-na. Con người và thế giới luôn
hiện hữu trong trạng thái Vô thường và Vô ngã. Tất cả mọi nỗi đau khổ và
sợ hãi đều bắt nguồn từ sự nhận thức sai lầm về Tự ngã, về cái Tôi. Khi
cái Tôi bị đe doạ, bị mất an ninh thì lập tức xuất hiện một cơ chế phản
ứng tự tồn trong tâm lý, nhằm bảo vệ Tư ngã, và đây chính là nguồn cội
của mọi sự lo sợ. Tu tập Vô úy là nỗ lực quán sát về Ngũ uẩn để thấy
được thực chất của con người, bán chất của cái Tôi được cấu thành trên
cơ sở là Vô thường và Vô ngã.
Do bị Vô thường chi phối nên cái Tôi và thế giới của ~rô; lUôn thay
đổi, biến hoại và sinh diệt. Tuy nhiên, sự dịch chuyển của cái Tôi ấy
không phải ngẫu nhiên, tùy tiện mà tuân theo quy luật. Đó là luật Nhân
quả, một hiệu ứng của Nghiệp do chính cá nhân tác tạo. Nếu chúng ta tạo
nghiệp lành sẽ được phước báo an vui, ngược lại nếu tạo ác nghiệp thì
chắc chắn bị quả báo khổ đau. Do đó, dù sợ hãi hay không thì kết quả
hạnh phúc hay khổ đau vẫn xay đến tùy theo nghiệp thiện hay ác. Nhận
thức được quy luật này, người Phật tứ tu tập hạnh Vô úy luôn bình thản,
không hề lo sợ hoặc kinh hãi trước bất kỳ biến cố nào, chỉ nỗ lực cải
tạo nghiệp nhân của chính mình, dẫu cho thế sự thăng trầm, tình đời sáng
nắng chiều mưa…, thậm chí xem thường cả cái chết.
Chúng ta thường sợ hãi những điều đã xảy ra trong quá khứ hoặc lo sợ
những bất hạnh sẽ ập đến đời mình trong tương lai. Có những nỗi sợ mông
lung, mơ hồ, gần như không xác định nguyên nhân và thời gian cụ thế.
Theo Tâm lý học Phật giáo, đây là dấu ấn của biến cố đã xảy ra trong quá
khứ, những kinh nghiệm của biến cố này được lưu giữ trong A lại da.
Chúng sẽ phát huy tác dụng khi hội đủ điều kiện làm cho chúng ta cảm
thấy bất an, bồn chồn hoặc sợ hãi. Gần hơn là những bất hạnh xảy ra khi
chúng ta còn nhỏ, vết hằn của sự khiếp đảm, tủi nhục in đậm trong tâm
thức khiến ta mất niềm tin, luôn “đề cao cảnh giác”. Song song với những
sợ hãi quá khứ, con người thường lo sợ về ngày mai. ý tưởng tương lai
mình sẽ thế nào, mình sẽ đi về đâu luôn ám ảnh, đeo bám khiến cho con
người luôn ray rứt, sợ sệt. Người Phật tử tu tập hạnh Vô úy luôn nhận
thức được rằng: Quá khứ là những điều đã qua, tương lai là những điều
chưa đến, hai phạm trù này không có thật. Chỉ có hiện tại, mà hiện tại
thì đang trôi chảy. Trong sát na hiện tại thì chẳng có gì phải lo lắng
hoặc sợ hãi cả vì tâm đã an trú vào chánh niệm.
Khi đã đạt được sự bình an, tĩnh lặng, không còn dao động, không còn
sợ hãi, người Phật tử đã thành tựu Vô úy. Phát nguyện dấn thân, đem sự
bình an, không sợ hãi đến với mọi người, đó là hạnh Vô úy thí. Bồ tát
Quán Thế âm là một trong những vị Bồ tát thường đem sự Vô úy đến với
những ai thành tâm niệm danh hiệu Ngài. Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện
của chúng sinh mà Ngài thị hiện để che chở và giúp đỡ khiến họ được bình
an. Vì hạnh nguyện bố thí Vô úy nên ngoài dạnh hiệu Quán Thế âm, Ngài
được xưng tụng là Bố Thí Vô Úy Giả.
Hiện tại bạn đang gặp nhiều bất hạnh, bạn lo lắng, hoang mang về
tương lai của mình. Tương lai được làm bằng chất liệu của hiện tại nhưng
tương lai là điều chưa xảy đến, vốn không thật. Do đó, lo sợ về tương
lai là vọng tuởng. Bạn hãy an trú vào hiện tại, ngay đây và bây giờ. Đối
diện với sợ hãi, nhận diện nó một cách rõ ràng, bạn sẽ tìm ra được
nguyên nhân căn bản của mọi nỗi sợ và cách thức giải quyết chúng. Giải
tỏa tâm lý sợ hãi, theo Đạo Phật, là một quá trình nỗ 1ực tu tập, chuyển
hóa và khai phóng tâm thức, nhận ra bản chất của cái Tôi (tự ngã) vốn
không thực. Nhờ sự duy trì tuệ quán thường trực về thân, tâm và thế giới
là do duyên sinh, giả hợp, không có Tự ngã, không có cái Tôi thì tức
khắc tất cả các thuộc tính của cái Tôi đều tan biến. Từ đây, hành giả dễ
dàng giải thoát mọi khổ đau, lo lắng và sợ hãi.