Tuy
nhiên, với Tăng Tín đồ Phật Giáo Nam truyền, ngày Rằm tháng Sáu có rất
nhiều ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời lịch sử và hoằng pháp của Đức
Phật. Ngày Rằm tháng Sáu còn được gọi là ngày Āsaḷhapūjā.
Pūjā
nghĩa là tôn kính, quý kính, còn có nghĩa là sự dâng cúng, cúng dường. Ở
đây, Pūjā còn có nghĩa là ngày lễ lớn. Āsaḷha là tên một tháng trong
lịch của Ấn Độ. So với âm lịch Việt Nam, Āsaḷha tương ứng với tháng Sáu.
Āsaḷhapūjā là ngày lễ Rằm tháng Sáu, ngày kỷ niệm trọng đại một lúc bốn sự kiện lịch sử:
1/ Bồ tát giáng trần
2/ Bồ tát xuất gia
3/ Ðức Phật chuyển Pháp Luân
4/ Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo
5/ Và sau ngày này, chư Tăng phật giáo Nam truyền bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.
Mơ màng ứng hiện mộng lành
Uy nghiêm bạch tượng hóa thành thánh thai
1. Bồ tát giáng trần.
Theo
Buddhavaṃsa (Phật sử), Bồ tát tu hạnh Trí tuệ phải thực hành pháp độ
khoảng 20 A tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Tiền kiếp của Phật Thích Ca là
Ngài Vessantara thực hành pháp bố thí ba-la-mật bậc thượng
(Dānaparamatthapāramī) thành tựu viên mãn. Sau đó hết tuổi thọ, Ngài tái
sanh vào cõi Trời Tusita có tên là Santusita. Trong những ngày trai
giới, Chư Thiên các nơi vân tập về đây để nghe đức Bồ tát Setaketu
thuyết pháp. Thường thường Ngài giảng về bố thí, trì giới, tham thiền,
tội ngũ trần, đề cao hạnh xuất gia, ba tướng của vũ trụ… giọng nói của
Ngài thanh tao như trời Phạm thiên, y phục chỉnh tề, hào quang sáng
chói. Sau thời giảng, Chư Thiên vô cùng hoan hỷ, chấp thọ lời dạy của
Ngài và cáo biệt trở về cung điện của mình.
Riêng
đức Bồ tát lúc nào cũng trầm tư mặc tưởng về chí nguyện độ đời của
mình. Vì thế Ngài lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng giáng phàm để thành
đạo. Thông lệ các vị Bồ tát mặc dù tu hạnh nào trước khi thành Phật
cũng phải ngụ trên cõi Trời này để chờ thời gian thích hợp giáng phàm.
Bồ tát Setasetu sống trên cõi Trời Ðâu suất khoảng thời gian rất lâu thì
đến thời gian sắp hết tuổi thọ. Lúc đó, trời Ðế Thích và Chư Thiên đã
đồng nhau cung thỉnh Ngài giáng phàm để sau này cứu độ chúng sinh. Ngài
quán chiếu năm điều:
Thời
kỳ (Kāla): Tuổi thọ chúng sanh thời này không quá 1000 tuổi mà cũng
không kém 100 tuổi. Lý do là, nếu sống lâu thì con người đâm ra dãi đãi,
bất chấp tội phước; còn như yểu số thì con người chỉ lo mưu cầu danh
lợi, thỏa mãn vật chất, không đủ thời gian tu niệm. Do đó, Ngài xuất
hiện ở thời kỳ này.
Quốc
độ (Desa): Ngài chọn Trung Ấn Độ, ở đấy không quá giàu mà cũng không
quá nghèo, sự bất công và sự phủ phàng lúc nào cũng hiện diện trong cuộc
sống. Hơn nữa, có nhiều sự bất đồng về giai cấp, nghèo khổ, bệnh hoạn
luôn là mối đe dọa con người, nhờ thế loài người dễ hướng thiện.
Dòng
dõi (Kula): Ngài chọn hoàng tộc Sakya. Vì trong 30 tục lệ của chư Phật,
tất cả các vị Chánh đẳng giác kiếp cuối không được tái sanh trong dòng
dõi thấp hèn, vì nếu tái sanh vào đó thì sẽ bất lợi cho việc hoằng pháp
độ đời. Còn như giáng phàm trong giòng dõi cao quý thì việc hoằng pháp
sẽ thuận lợi trong việc hoằng pháp.
Châu
(Padīpa): Loài người đang sống và tồn tại ở bốn châu thiên hạ: Đông
thắng thần châu (Pubbavideha), Tây ngưu hóa châu (Āparagoyāna), Bắc cưu
lưu châu (Uttarakuru) và Nam thiệm bộ châu (Jambudīpa). Ngài chọn Nam
thiệm bộ châu vì ở châu này loài người không văn minh kiêu kỳ mà cũng
không quá lạc hậu đần độn. Nhờ vậy khi gặp Phật, họ dễ dàng lãnh hội
giáo lý, tu hành mau đắc đạo.
Cha
mẹ (Mātara): Đức Phật là thầy của tam giới nên Ngài phải chọn người có
đại duyên, đại nguyện với Ngài trong vô lượng kiếp. Vua Suddhodana và
chánh hậu Mahāmāyādevī, hai người này đã từng là cha mẹ của Ngài trong
nhiều kiếp nên Ngài chọn hai vị này làm quyến thuộc.
Sau
khi quan sát năm điều thích hợp trên, Ngài đồng ý giáng sanh xuống trần
gian để sau này thành đạo tiếp độ chúng sinh. Hôm đó là ngày Rằm tháng
Sáu, năm 624 trước tây lịch.
Xa nhau chẳng phải phụ nhau
Quyết tìm phương dứt khổ đau muôn loài
2/ Bồ tát xuất gia.
Một
ngày vẻ vang kia, thái tử ra khỏi hoàng cung để nhìn xem thế gian bên
ngoài và trực tiếp tiếp xúc với sự thật phũ phàng của đời sống. Trong
phạm vi nhỏ hẹp của cung điện, Ngài chỉ thấy phần tươi đẹp, nhưng đám
đông nhân loại thì biết bề đen tối, đáng ghê sợ của đời. Chính cặp mắt
quan sát của thái tử đã nhận thấy một cụ già chân mỏi gối dùn, một người
bệnh hoạn đau khổ, một thây ma hôi thúi và một đạo sĩ nghiêm trang khả
kính. Ba cảnh già, bệnh và chết, hùng hồn xác nhận quan điểm của thái tử
về đời sống đau khổ của nhân loại. Hình ảnh thong dong từ tốn của nhà
tu sĩ thoáng cho Ngài hé thấy con đường giải thoát, con đường an vui
hạnh phúc thật sự. bốn quang cảnh bất ngờ ấy càng thúc giục thái tử ghê
tởm và sớm thoát ly thế tục.
Nhận
định rõ ràng rằng những thú vui vật chất mà phần đông tranh nhau tìm
kiếm đều không thể đem lại lợi ích, chỉ có sự xuất gia, sự từ bỏ tất cả
mùi danh bã lợi của trần gian này mới thật là chân giá trị, Thái Tử
Siddhattha nhất định rời bỏ cung điện đền đài để ra đi tìm chân lý, nơi
không còn phải tái sanh, già đau, bệnh, chết như thế.
Giữa
lúc ấy thì có tin đưa đến rằng Công Chúa Yasodharā, vợ Ngài, vừa hạ
sanh hoàng nam. Đối với thế gian, đó là một tin lành. Nhưng, trái hẳn
với mọi dự đoán, Ngài không quá đỗi vui mừng vì thấy đó là thêm trở
ngại. Thế thường, khi sanh được người con đầu lòng, cha mẹ cảm nghe
trong lòng chớm nở lần đầu tiên một tình thương mặn nồng sâu sắc, một
tình thương mới mẻ đậm đà, vô cùng trong sạch. Nỗi vui mừng của người
làm cha đầu tiên thật không sao tả được. Nhưng Thái Tử Siddhattha không
phải là một người cha thường, Ngài than: "Lại thêm một trở ngại, lại
thêm một dây trói buộc". Do đó, Đức Vua Suddhodana đặt tên cháu nội là
Rāhula.
Ngài
truyền lệnh cho Channa, người đánh xe yêu chuộng, thắng yên ngựa
Kaṇṭhaka và thẳng đến điện của công chúa. Ngài khẽ hé cửa nhìn vợ và con
đang yên giấc với một tấm lòng từ ái nhưng bình thản, không chao động,
không trìu mến. Tình thương đối với vợ, con thật mặn nồng sâu sắc. Nhưng
đối với nhân loại trầm luân đau khổ, lòng trắc ẩn của Ngài lại càng
thâm thậm vô ngần. Ra đi, Ngài không lo sợ cho tương lai của công chúa
và hoàng tử, vì biết chắc chắn rằng vợ và con sẽ có đầy đủ tiện nghi và
đảm bảo để sống an toàn và sung sướng. Ra đi, không phải vì kém tình
thương vợ, thương con, mà vì tình thương của Ngài mở rộng cho mọi người,
bao trùm tất cả nhân loại và chúng sanh.
Thái
Tử Siddhattha ra đi giữa đêm khuya, để lại sau lưng tất cả đền đài cung
điện, người cha yêu quý, vợ đẹp, con thơ, và cả một tương lai huy hoàng
rực rỡ. Ngài trốn ra khỏi thành và giục ngựa thẳng xông trong đêm tối.
Cùng đi với Ngài chỉ có Channa. Không tiền của, không cửa nhà, nay đây
mai đó, Ngài bắt đầu lần bước trên đường đi tìm chân lý. Thế là Ngài từ
bỏ thế gian.
Đây
không phải là sự từ bỏ của một cụ già đã trải qua hầu hết cuộc đời của
mình, hay của người bần cùng nghèo đói không còn gì để bỏ lại phía sau,
nhưng là sự khước từ của một hoàng tử vinh quang giữa thời niên thiếu,
trong cảnh ấm no, sung túc và thịnh vượng. Một sự thoát ly chưa từng có
trong lịch sử. Lúc ấy thái tử Siddhattha được 29 tuổi, vào năm 234 trước
tây lịch.
Đây đường trung đạo tám ngành
Đây là tứ đế lý chân nhiệm huyền
3/ Ðức Phật chuyển Pháp Luân.
Sau
khi giác ngộ, vị trời Phạm thiên Sahampati cung thỉnh Thế tôn vì lòng
từ bi thuyết pháp độ đời. Ngài quan sát thế gian và nhận lời thuyết
pháp. Ðầu tiên Ngài nghĩ sẽ thuyết pháp cho ai, người được nghĩ đến là
đạo sĩ Ālārakālāma và đạo sĩ Uddakarāmaputta, hai vị này là thầy dạy đạo
cho Ngài khi còn là Bồ tát, nhưng Chư Thiên báo là hai vị này đã qua
đời. Tiếp đến Ngài nghĩ đến năm người bạn Kiều Trần Như đồng tu khổ hạnh
với Ngài và hiện giờ họ đang ở vườn Lộc Uyển Isipatana gần thành
Bārāṇasī.
Từ
Bồ đề đạo tràng sang vườn Lộc Uyển rất xa, khoảng 18 do tuần, chư Phật
trong quá khứ chuyển bánh xe Pháp lần đầu thường đi bằng thần thông.
Nhưng đức Phật Thích Ca quan sát thấy du sĩ Upaka có duyên với Ngài, nếu
Ngài đi bằng thần thông thì du sĩ sẽ không có cơ hội gặp gỡ Ngài, mặc
dù cuộc hạnh ngộ với đức Phật ngắn ngủi nhưng là một túc duyên cho Upaka
sau này giác ngộ. Chính vì thế nên Ngài quyết định đi bộ. Ðường xá xa
xôi, đường đi hiểm trở, tất cả cũng vì tình thương và sự giác ngộ của
chúng sinh. Không màng những khó khăn cực nhọc trên một đoạn đường dài
như vậy và cuối cùng Ngài đến vườn Lộc Uyển đúng vào ngày Rằm tháng Sáu,
năm 228 trước tây lịch.
Ðây
là bài pháp nồng cốt trong triết lý Phật Giáo, là bài pháp đầu tiên mà
Đức Phật thuyết giảng sau khi Ngài giác ngộ, cũng còn gọi là Kinh Chuyển
Pháp Luân - Dhammacakkappavattanasutta.
Nội dung bài pháp đầu tiên, gồm có bốn vấn đề:
1. Khổ đế: trình bày tất cả những nỗi đau khổ trên trần gian
2. Tập đế: chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ là Ái dục
3. Diệt đế: là trạng thái tịch tịnh, vắng lặng, Níp-bàn
4. Ðạo đế: là con đường Trung đạo có tám ngành.
Tóm
lại, Ngài chỉ cho chúng sinh thấy niềm đau nỗi khổ trên cuộc đời và
nguyên nhân đưa đến đau khổ. Ðồng thời Ngài giới thiệu sau khi hết khổ
sẽ có hạnh phúc, an lạc, tự do và thoải mái và sau đó Ngài chỉ cho thấy
những con đường phải đi để thành tựu được niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Kinh
ghi lại trước khi Ngài bắt đầu thuyết pháp Tứ diệu đế, Ngài giảng hai
điều mà các thầy cần phải tránh xa, đó là khổ hạnh và lợi dưỡng. Khổ
hạnh ép xác thái quá và sống lợi dưỡng thái quá cũng không đưa đến giải
thoát. Mà tránh xa hai con đường này đó là con đường Trung đạo –
Majjhimapaṭipadā. Kết quả sau thời giảng là năm vị Koṇḍañña mở pháp
nhãn, giác ngộ đạo quả Tu đà hườn, trở thành 5 vị Thánh Tăng đầu tiên
trong Phật giáo
Dù là pháp thuật thần thông
Phô trương sở đắc, sa môn không làm
4/ Ðức Phật thị hiện song thông nhiếp phục ngoại đạo.
Trong
30 tục lệ của chư Phật, dùng thần thông để nhiếp phục ngoại đạo là một
trong ba mươi tục lệ đó. Ðã là tục lệ thì vị Phật tổ nào cũng phải thực
thi đúng như vậy. Tục lệ có nghĩa là luật lệ, quy định, điều lệ đã định
sẵn để dành cho những vị Phật tổ trong quá khứ, hiện tại và tương lai
thi hành đúng niêm luật. Cho nên câu chuyện Đức Phật nhiếp phục ngoại
đạo bằng thần thông là một chuyện bình thường vì đây chỉ là một việc làm
kế thừa truyền thống của chư Phật.
Từ
khi thành đạo dưới cội Bồ đề và Ngài thuyết pháp giảng đạo, có rất
nhiều người hữu duyên tìm đến với Ngài. Pháp của Ngài giảng hoàn hảo
đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, chúng sinh nào có duyên chắc chắn giác
ngộ ngay trong kiếp hiện tiền. Do đó nhiều đệ tử của Ngài xuất gia, đắc
đạo mặc dù họ đã có nhiều năm tu hành theo sáu vị lãnh đạo của lục đại
môn phái nổi tiếng khắp nơi tại xứ Ấn Độ bấy giờ. Các vị lãnh đạo đó
nhìn thấy đệ tử của mình mỗi ngày mỗi ít, đa số đã từ giã mình đi theo
thọ giới với Sa môn Cồ Ðàm. Không nói được, nhưng càng nhìn đệ tử từ giã
ra đi lại càng thêm căm phẫn. Thế nên hình ảnh đức Phật và đệ tử của
Ngài là một sự căm thù đối với nhóm lục sư ngoại đạo trên. Mọi sinh hoạt
của Ngài đều bị họ theo dõi để tìm khuyết điểm xuyên tạc, nhục mạ, hạ
uy tín… nhưng tất cả đều như gió thoảng mây bay.
Sở
dĩ có chuyện Phật dùng thần thông chiến thắng ngoại đạo là vì Tôn giả
Pindolabhāradvāja vâng lời Ngài Mahāmoggallāna đi thâu bát trầm trên hư
không của một vị trưởng giả.
Có
một ông trưởng giả tìm được một khối trầm, cho tạc thành một bình bát
và ông ta treo giải thưởng nếu ai lấy được bát ông sẽ trọng thưởng và cả
gia đình theo nương nhờ làm học trò. Nhóm lục sư ngoại đạo nghe vậy cho
người môi giới đến xin nhưng ông từ chối. Họ nói với ông trưởng giả
chẳng lẽ vì một cái bát mà phải dùng thần thông thì không xứng đáng. Họ
tìm nhiều mưu mô để đoạt được bát trầm nhưng không được. Ông trưởng giả
nghĩ rằng trong nước mình đang ở có nhiều tôn giáo họ tự xưng là
A-la-hán cho nên ông treo giải thưởng như vậy người nào lấy được mới quả
là A-la-hán. Nhưng bảy ngày trôi qua nhóm lục sư ngoại đạo không người
nào thi hành theo tâm nguyện của ông trưởng giả.
Thế
là một buổi sáng tinh sương, Ngài Mahāmoggallāna và Ngài
Pindolabhāradvāja vào thành khất thực nghe dân chúng đồn xôn xao về bình
bát trầm của ông trưởng giả, nên Mahāmoggallāna bảo Tôn giả
Pindolabhāradvāja hãy đi thâu bát. Ông trưởng giả và dân chúng nhìn thấy
tận mắt Tôn giả Pindolabhāradvāja lấy bát, ông trong sạch và hoan hỷ
cúng dường tứ sự. Từ chuyện lấy bát của Tôn giả Pindolabhāradvāja, dân
chúng kính trọng và sùng ái đệ tử của đức phật, nên họ rủ nhau đến chùa
đông đảo để tìm. Ðức Phật hay biết chuyện này nên Ngài kêu Tôn giả Pindo
vào và cấm từ nay về sau, Tôn giả và chư Tăng không được tự tiện dùng
thần thông trước quần chúng.
Khi
đức Phật cấm chế điều luật đó, nhóm lục sư ngoại đạo hay biết được và
cho người đi tuyên truyền rằng: đệ tử của Sa môn Gotama còn vì danh lợi
nên mới đi lấy bát còn chúng tôi là A-la-hán không vì danh lợi nên không
lấy bát theo lời yêu cầu của trưởng giả. Sa môn Cồ Ðàm còn đập bát và
cấm chế điều luật, không cho đệ tử sử dụng thần thông. Do đó họ quyết
định thi thố thần thông với ông Sa môn Cồ Ðàm.
Vua
Ajātasattu hay tin ngoại đạo nói như vậy, vội vã vào yết kiến Thế tôn
và bạch rõ vấn đề những vị lãnh đạo tôn giáo đó muốn thách thức so tài
thần lực với Thế tôn. Ðức Thế tôn trầm lặng trong giây lát, Ngài nói với
nhà vua rằng Như Lai đồng ý so tài thần thông với họ. Vua nói:
– Bạch Thế tôn, còn việc Ngài cấm sử dụng thần thông thì sao?
– Tâu Ðại vương, Như Lai cấm đệ tử chứ Như Lai đâu có cấm Như Lai đâu!
Thế
là đức Phật báo rõ địa điểm và thời gian để so tài thần thông với nhóm
Lục sư ngoại đạo. Ngày đó là Rằm tháng Sáu tại Sāvatthī.
Khi
ngoại đạo hay tin đức Phật đồng ý so tài thần thông với họ, nên họ rất
sợ và hoang mang. Vì họ nghĩ rằng, Ngài cấm chế không cho đệ tử sử dụng
thần thông thì chắc Ngài cũng không được phép sử dụng, ai ngờ bây giờ
ông ta đồng ý đấu thần thông với chúng ta thì chúng ta tính sao đây?
Nhưng dù sao thì đã lỡ công bố rồi! Nhóm Lục sư ngoại đạo cùng nhau kéo
về Sàvatthì và họ kêu gọi tín đồ hùn tiền để xây tháp đài để so tài thần
lực với Sa môn Gotama, nên họ thu được một số tiền rất lớn. Vua
Pasenadi hay biết tín đồ của nhóm lục sư ngoại lo lắng cho thầy như vậy
Ngài cũng nao nao trong lòng. Hôm sau vua vào lễ Phật và xin Phật cho
Ðại vương xây một tháp đài giống như ngoại đạo để Thế tôn so tài với họ.
Ðức Phật khước từ và Ngài bảo sẽ hiện thần thông dưới gốc cây xoài.
Ngoại
đạo biết được cuộc nói chuyện giữa đức Phật và vua Pasenadi, nên họ cho
đệ tử chặt hết những cây xoài trong thành Sāvatthī. Ðã đến ngày giờ so
tài với ngoại đạo, Phật ngự vào thành nhưng chưa đến thành thì có một
người giữ vườn Thượng Uyển thấy xoài chín hái dâng cho Phật. Phật hoan
hỷ thọ lãnh và tìm một chỗ thích hợp ngồi thọ xoài, còn hạt xoài Ngài
bảo người giữ vườn đào lỗ trồng và chính tay Ngài tưới nước. Chẳng bao
lâu hạt xoài mọc lên một cây xoài xanh tươi nhiều hoa lá và có nhiều
trái thơm ngon.
Dân
chúng đến tham dự cuộc so tài của đức Phật và ngoại đạo, họ thấy xoài
có nhiều trái chín nên họ hái cùng nhau ăn. Họ ăn xoài thấy hương vị
ngon lạ lùng, càng ngon họ càng nguyền rủa bọn ngoại đạo vô cớ chặt hết
những cây xoài trong thành Sāvatthī, nên họ thấy bọn ngoại đạo ở đâu họ
dùng hạt xoài ném vào bọn ngoại đạo.
Sắp
đến giờ so tài, bọn ngoại đạo khủng hoảng tinh thần trước quần chúng.
Liền sau đó đức Phật hóa một con đường bằng ngọc báu, rồi Ngài đi thiền
hành trên con đường đó.Tiếp theo, Ngài hóa thân, từ một thân thành nhiều
thân, lúc đó quần chúng thấy nhiều Phật, Phật ngồi, nằm hoặc hai vị
thuyết pháp với nhau… Cuối cùng, Ngài thị hiện song thông
(yamakapāṭihāriya), với năng lực này chỉ có đức Chánh đẳng Chánh giác
mới có thể thực hiện được.
Thần
thông này cùng một lúc hiện ra hai điều kỳ diệu: từ thân vừa phún tia
nước, vừa phún tia lửa; từ thân phát hào quang xanh và đỏ… Trước uy lực
của một vị Phật như vậy, bọn ngoại đạo kiếp sợ và rút lui chạy tán loạn
chỉ còn lại dân chúng đang hướng về đức Phật thành kính lễ bái. Ðồng
thời Ngài thuyết một bài pháp đúng vào tâm lý của từng chúng sinh, nên
hôm đó Chư thiên và nhân loại đắc đạo chứng quả nhiều vô số kể.
Trong
giây lát, đức Phật chiêm nghiệm bằng tuệ giải thoát, Ngài thấy chư Phật
trong quá khứ sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo là ngự lên cõi
Trời Tāvatiṃsā thuyết pháp độ Phật mẫu bằng tạng Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma). Hôm ấy đúng vào ngày Rằm tháng Sáu.
5/ Chư Tăng phật giáo Nam truyền bắt đầu mùa An cư Kiết hạ.
Một
ngày sau lễ Rằm tháng Sáu, chư Tăng trong truyền thống Phật giáo Nam
truyền bắt đầu mùa An cư Kiết hạ. Trong chương “Vào Mùa Mưa”, Đại Phẩm,
Tạng Luật, có ghi:
Đức
Thế Tôn ngự tại thành Vương-xá, Trúc Lâm. Lúc bấy giờ, việc an cư mùa
mưa chưa được đức Thế Tôn quy định cho các Tỳ-kheo. Các vị Tỳ-kheo đi du
hành trong mùa lạnh, trong mùa nóng và cả trong mùa mưa nữa. Dân chúng
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
-
Vì sao các Sa-môn Thích Tử lại đi du hành trong mùa lạnh, trong mùa
nóng, và cả trong mùa mưa nữa? Ngay cả các du sĩ ngoại đạo, dù có giáo
lý được thuyết tồi tệ, vẫn sống cố định một chỗ trong mùa mưa, ngay cả
những con chim sau khi làm tổ trên các ngọn cây cũng sống cố định trong
mùa mưa. Còn các sa-môn Thích Tử thì lại đi du hành trong mùa lạnh,
trong mùa nóng, và cả trong mùa mưa nữa. Các vị ấy đang dẫm đạp lên các
loại cỏ xanh, đang hãm hại mạng sống của loài chỉ có một giác quan, và
đang gây nên việc giết hại hàng loạt chúng sanh nhỏ nhoi.
Các
Tỳ-kheo nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Vì thế,
các vị đã đem sự việc ấy trình lên đức Thế Tôn. Đức Phật nhân sự việc
này mà bảo các Tỳ-kheo rằng:
- Này các Tỳ-kheo, ta cho phép an cư trong mùa mưa. Đây là hai thời điểm vào mùa an cư: thời điểm trước và thời điểm sau.
Thời
điểm trước là ngày kế của ngày trăng tròn tháng Āsaḷha, thời điểm sau
là vào ngày sau trăng tròn tháng sau. Tính theo âm lịch của Việt Nam nếu
không có tháng nhuần thì thời điểm trước là ngày 16 tháng 6, thời điểm
sau là ngày 16 tháng 7. Ngài dạy tiếp:
- Này các Tỳ-kheo, trong mùa an cư ba tháng thì không nên ra đi du hành. Vị nào ra đi thì phạm tội tác ác (dukkata).
Tuy
nhiên, nếu có chuyện cần kíp và được thỉnh mời, vị Tỳ-kheo được phép
rời trú xứ trong thời hạn không quá bảy ngày. Đức Phật dạy:
-
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép đi khi được thỉnh mời với công việc có thể
giải quyết trong bảy ngày; và không nên đi, nếu không được thỉnh mời.
Mùa
an cư bắt đầu từ ngày rằm tháng Āsaḷha (rằm tháng Sáu). Tuy nhiên, đức
Phật cũng cho phép bất kỳ một Tỳ-kheo nào khởi sự chậm hơn một tháng,
vào ngày rằm tháng Bảy - gọi là “hậu An cư”. Việc đình chỉ du hành chấm
dứt vào ngày rằm tháng Chín (Āssina). Nếu vị nào khởi sự chậm hơn một
tháng, thì chấm dứt vào tháng Mười (Kattikā). Chư Tăng tổ chức lễ sám
hối Bố-tát (Uposatha) đặc biệt, gọi là lễ Tự tứ (Pavāraṇā), đánh dấu kết
thúc mùa an cư. Sau đó, các Tỳ-kheo công bố hoàn tất các phận sự trong
Giới luật, rời nơi an cư và bắt đầu du hành truyền đạo.
Như
vậy, chúng ta thấy rằng: nếu như mình bỏ quên ý nghĩa của ngày rằm
tháng sáu là mình đã bỏ quên một phần quan trọng trong lịch sử hoằng
pháp của đức thế tôn.
Ngài
giáng sanh vào lòng mẹ vào ngày Rằm tháng Sáu như là mở đầu cho kiếp
sống cuối cùng của Ngài, vì sau kiếp sống này, Ngài sẽ không còn tái
sanh luân hồi lại nữa. Sự ra đi vĩ đại của bậc vĩ nhân từ bỏ nhung gấm,
ngai vàng để mở đầu cho cuộc sống tu sĩ vô gia cư, xuất ly thế gian
pháp. Bài pháp đầu tiên được ngài thuyết giảng để mở đầu cho công cuộc
hoằng pháp độ sanh, đem đến nguồn nước bất tử cho những chúng sanh hữu
duyên với Chánh Pháp. Rồi sau khi dùng song thong nhiếp phục được ngoại
đạo, Ngài bắt đầu mùa an cư thứ 7 của mình tại cung trời Đạo Lợi để
thuyết pháp A-tỳ-đàm tiếp độ mẫu thân của Ngài như là món quà báo đáp ân
hiếu nghĩa. Đối với chư Tăng, sau ngày Rằm tháng Sáu cũng là ngày bắt
đầu ba tháng an cư mùa mưa theo Luật định. Có lẽ quá nhiều cái bắt đầu
từ ý nghĩa của ngày Rằm tháng Sáu, vậy thì chúng ta hãy cùng nhau bắt
đầu tu tập ngay từ bây giờ. Đừng chần chừ mà hãy bắt đầu đi nhé!
Kính
chúc chư Tăng, Tu nữ và quý Phật tử một mùa an cư nhiều sức khỏe, thật
an lạc và tràn đầy hạnh phúc trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn.