I. Có ba chặng đường đến giác ngộ: Nhân
thiên (con đường nhỏ hay chặng một), Thanh văn, Duyên Giác (con đường
trung hay chặng hai), Bồ tát (con đường lớn hay chặng ba). Ở mỗi chặng,
động lực tu tập một khác, có thể tóm tắt trong hai yếu tố: Sợ hãi và
mong cầu. Chặng một, động lực tu hành là sợ đọa ba ác đạo, mong được
phước báo trời người. Chặng hai, sợ đến cả phước báo cõi trời người vì
bấp bênh, vì vô thường chi phối. Bởi thế nỗi sợ hãi của Thanh văn là sợ
sinh tử luân hồi, và mong cầu của Thanh văn là mong cầu giải thoát.
Chặng ba là Bồ tát đạo thì thấy cầu giải thoát cho riêng mình chưa đủ,
trong khi bao nhiêu chúng sinh như cha mẹ bà con mình đang ngụp lặn
trong biển khổ. Do vậy Bồ tát khởi tâm đại bi mong cứu vớt tất cả, và
muốn thực hiện điều này thì phải cầu thành Phật mới đủ trí tuệ và phương
tiện để cứu giúp chúng sinh như Phật Thích Ca đã làm. Vậy mong cầu ở
chặng ba là cầu thành Phật, muốn thế phải phát Bồ đề nguyện và lập Bồ đề
hạnh. Con đường của Bồ tát đạo bị bế tắt khi mà hành giả thối tâm bồ
đề, trở lại mong cầu tự độ, giải thoát riêng mình vì thấy đường còn xa
thăm thẳm. Nỗi lo sợ của người theo đuổi chặng ba chính là sợ chính mình
thối thất tâm bồ đề.
II. Vì ở mỗi chặng mục đích tu hành một
khác, nên đức tin đối với Tam bảo cũng khác. Chặng một như đứa con khi
còn bé được cha thương yêu che chở. Nó nhìn cha như một vị thần ban
phước vì nó xin cái gì được đáp ứng cái ấy. Hình ảnh người cha ở giai
đoạn này đối với con trẻ là một thần tượng, một đấng toàn năng. Chặng
một xem Phật cũng như vậy, tin tưởng tuyệt đối vào năng lực cứu khổ của
Ngài: Công thức quy y của đệ tử năm giới tại gia là quy y Phật bất đọa
địa ngục… Ta có niềm tin chắc rằng Phật sẽ cứu ta khỏi nỗi khổ địa ngục,
ta sẽ không rơi vào đó một khi ta đã quay về nương tựa ngài và thay đổi
cách hành xử cho thích đáng với một Phật tử tại gia là giữ 5 giới đã
thọ. Pháp ở chặng này là lối sống điều độ phải chăng của một con người
lương thiện. Tăng ở chặng này là người đại diện cho Phật để dìu dắt
chúng sinh.
Chặng hai (con đường của tiểu thừa hay
Thanh văn Duyên giác) thì sự quy y và niềm tin Phật giống như đứa con đã
thành niên tin cha. Thái độ hoàn toàn ỷ lại thần quyền của thuở bé
không còn nữa, bây giờ nó xem cha như một bậc thầy, một tấm gương, một
người mà nó có thể thỉnh thoảng quay về hỏi ý kiến mỗi khi làm ăn thất
bại. Nhưng phần nhiều nó thích tự lập, không muốn cha xía vào cuộc đời
riêng tư của nó lúc không cần thiết. Vai trò bậc thầy, người cha ở giai
đoạn này thật tế nhị, rất dễ đỗ vỡ nếu cung đàn lỗi nhịp về phía bậc
thầy, người cha, hoặc về phía người con, đệ từ. Lỗi nhịp khi cha, thầy
xía vào đời đứa con hay đệ tử lúc nó chưa sẵn sàng đón nhận sự dạy bảo,
lỗi nhịp khi người đệ tử đối dỉện với một giáo lý vượt quá trình độ của
mình (như trường hợp trong kinh Pháp Hoa, phẩm Tựa, năm ngàn Tỳ kheo đã
bỏ pháp hội đi ra lúc Phật sắp tuyên thuyết viên đốn giáo của Đại thừa)
hay khi người con, người đệ tử quá kiêu căng hoặc quá tự ty mặc cảm.
Những người con, đệ tử nhìn sự sáng chói của cha hay thầy mình bằng
nhiều thái độ khác nhau. Có kẻ hãnh diện vì được làm con hay đệ tử của
một bậc thầy, người cha lỗi lạc, và khi tự xưng tôi là con hay đệ tử của
vị này vị kia, người ta cảm thấy mình cũng oai, cũng dự phần vào sự
sáng chói của cha hoặc thầy mình. Đây là một thái độ nặng ngã chấp, vì
khen thầy mình cha mình thì cũng không khác gì tự khen mình. Một hạng
con hay đệ tử lại thường tìm cách chống đối và ưa nói ngược lại cha,
thầy, bất kể họ nói ra điều gì: Một kiểu ganh tị ngấm ngầm phát sinh từ
ngã chấp. Hạng con, đệ tử thứ ba thì hoàn toàn khâm phục sự sáng chói
của bề trên và tự cho mình thấp thỏi không sao với tới nên tránh xa thầy
một khoảng cách an toàn, trở thành người ngoại cuộc do tự ti mặc cảm.
Cả ba thái dộ vừa kể không thái độ nào là thái độ của một Thanh văn đệ
tử. Hai thái độ đầu nặng ngã chấp và mặc cảm tự tôn, được ví như cái
bình lật úp không chứa đựng được gì vượt ngoài “cái tôi” của mình. Thái
độ của người con hay đệ tử đầy tự ti mặc cảm thì giống như cái bình bị
lủng lỗ, cũng không chứa đựng được pháp.
Thanh văn đệ tử, những người ở chặng hai
của con đường tu tập thì nhìn Phật với thái độ của một vị lương y cứu
cấp kịp thời, một người cho ăn đúng lúc mình đang đói. Pháp đối với họ
như thuốc cấp cứu, Tăng như bạn đồng bệnh trong phòng hồi sức. Khi một
người còn dư thời giờ để nghiên cứu hết triết thuyết này đến thư tử nọ,
là họ chưa bước vào chặng đường hai: họ còn ở ngoài ngưỡng cửa, như một
người khách hàng trong siêu thị xem hết món này đến món khác mà chưa
quyết định mua món nào. Thanh văn trái lại là người đã thấy được nổi khổ
sinh tử một cách quyết liệt cấp bách như thấy lửa đang bốc cháy lan tới
mình, không còn thì giờ để lý luận. Kinh thường lấy ví dụ con voi sa
lầy: Một con voi đang khát cháy cổ chợt trông thấy một ao đầm nước trong
mát liền lội xuống ngâm mình và uống nước thỏa thích. Nhưng chưa đã
được cơn khát thì nó nhận ra rằng cả bốn chân nó đang từ từ lún xuống
sình lầy càng lúc càng sâu. Càng vùng vẫy nó càng lún sâu thêm: nó đâm
hoảng sợ quên cả cảm giác thoải mái của nước mát quanh mình và trong cổ
họng. Nó chỉ còn nghĩ tới cái chết gần kề.
Thái tử Tất Đạt Đa ngày xưa có lẽ cũng
đã từng cảm thấy những nhức nhối của cuộc tồn sinh theo kiểu ấy, nên mặc
dù đang sống trong nhung lụa, ngài đã âm thầm từ giã ra đi tìm đạo giữa
đêm khuya, và đã thành đạo ngay giữa lòng đời đau khổ. Khi thấy rõ sự
bất toại ý của cuộc đời, thì chính sự bất toại ý ấy trở thành diệu dược
giúp ta thoát ly. Thử tưởng tượng một người có nhiều khát vọng ước mơ.
Họ sẽ ra sao nếu không thỏa mãn một ước mơ nào cả? Và họ sẽ ra sao nếu
tất cả những ước mơ của họ đều được thỏa mãn? Có lẽ hai tình trạng ấy
không khác nhau mấy chút: còn lại vẫn là một nỗi chán chường bất mãn
thường xuyên. Nhà thơ Bùi Giáng đã viết:
Trời đất lạnh và lòng anh không thỏa
Gửi hồn đi phương hướng hút heo ngàn
Hồn ngơ ngác loay hoay về hỏi dạ
Có bao giờ dạ thỏa giữa không gian?
Thanh văn là người thấy được rằng đời
khổ không phải vì ta không thỏa mãn được các dục, mà khổ chính là các
dục. Thấy được như vậy gọi là pháp nhãn ly trần vô cấu đã phát sinh,
ngay tại chỗ họ được giải thoát: cơn bệnh hóa thành diệu dược là ở chỗ
đó. Vai trò đức Phật ở chặng đường này không còn là vị thần ban phúc kéo
ta ra khỏi địa ngục, mà là tấm gương sáng giúp ta thấy rằng giải thoát
có thể thực hiện ngay giữa lòng đời đau khổ. Và giải thoát đây đồng
nghĩa với ly dục.
Ở chặng đường cuối là Bồ tát đạo, vai
trò đức Phật và sự quy y lại mang ý nghĩa sâu xa hơn nữa. Trở lại với ví
dụ thái độ con nhìn cha hay trò nhìn thầy: người con ở chặng này đã an
thân lập mạng, tự thấy có nhiệm vụ phải giúp đỡ cha già để đền ơn giáo
dưỡng. Và giúp đỡ đây có nghĩa là làm sao cho gia tài cha để lại đừng bị
hư hao. Bao nhiêu kho tàng châu báu cha khó nhọc làm ra, bây giờ trao
hết về tay Bồ tát như người con cả. Nếu không có Bồ tát thì sẽ không có
Thanh văn, không có Duyên giác, cỗ xe làm người làm trời (nhân thiên
thừa) cũng không luôn. Thế gian sẽ chìm trong màn đêm u ám. Bởi thế Bồ
tát đóng vai trò trọng đại trong sự mất còn của Phật pháp. Có Bồ tát là
có tất cả không Bồ tát là không còn gì. Đại thừa giáo đặt nặng việc thọ
Bồ đề tâm giới là vì lẽ đó. Có thọ Bồ đề tâm, lập nguyện Bồ đề và hành
hạnh Bồ tát mới là đi đúng quỹ đạo của Phật.
Phát tâm Bồ đề có nghĩa là xác nhận khả
năng giác ngộ sẵn có nơi mình và tất cả mọi người, và nguyện phát triển
khả năng ấy đời đời kiếp kiếp cho đến khi hoàn toàn gìác ngộ như Phật,
để có khả năng và phương tiện cứu giúp tất cả Căn bản của sự phát tâm bồ
đề là lập 4 thệ nguyện rộng lớn căn cứ trên tứ diệu đế.
Vì nỗi khổ chúng sinh vô biên, nên con
lập nguyện lớn cứu tất cả khổ, (khổ đế).
Phiền não tham sân si (nơi con và mọi
người) là vô cùng tận, nên con lập nguyện lớn đoạn trừ cho hết, (tập
đế).
Có vô số phương pháp cứu khổ, con lập
nguyện lớn học cho hết, (đạo đế).
Chỉ có thành Phật mới mong cứu giúp
chúng sinh thoát tất cả khổ, nên dù Phật đạo cao siêu diệu vợi, con
nguyện sẽ đạt thành, (diệt đế).
Khi phát bốn thệ nguyện rộng lớn ấy là
ta đặt mình trên đường đi của chư Bồ tát, nên ở chặng này, vai trò của
Phật Bồ tát là vai trò của người bạn lành (thiện tri thức); pháp là tất
cả cuộc đời với khổ đau an lạc thành công thất bại sống chết nhục vinh.
Tăng là cộng dồng những người cùng chung bồ đề nguyện.
Mật tông chia con đường Đại thừa làm
hai: Đại thừa và Kim cang thừa hay Tối thượng thừa, nhưng chung quy Kim
cang thừa chỉ là con đường tắt của đại thừa. Thành Phật ngay trong đời
này, bằng chính thân xác này. Kim cang thừa đặt nặng nghi lễ, nên có lễ
Abhisekha thường được dịch nhiều cách: quán đảnh, nhập môn, điểm đạo hay
gia trì. Trong lễ này, hành giả được cho uống và rưới đầu bằng một thứ
nước phép; người thọ giới xem như đã uống vào thứ nước cam lồ bất tử. Kể
từ giờ phút ấy giới tử được trao một sứ mệnh thiêng liêng. Thế giới như
được mở rộng ra thành pháp giới trùng trùng vô tận, hành giả được đẩy
vào khoảng không bao la để tự túc tự cường, trở về với chính mình và với
vũ trụ thay vì bám lấy một thần tượng như ở hai chặng đường trước. Theo
nghĩa đó thì nói lễ nhập môn không đúng bằng xuất môn: người thọ giới
được trao truyền một thứ nguy hiểm chết người nên chưa đủ sức để đón
nhận, đó là tự do tuyệt đối. Cho nên, cần nói rằng không ai có thể thọ
giới Kim Cương thừa nếu chưa trải qua hai giai đoạn dưới đó là Thanh văn
và Bồ tát.
Danh từ gia trì (empowerment) có lẽ hay
hơn cả: hành giả Kim cương thừa hay đại thừa cấp cao, khi thọ giới này
là được sự tiếp sức của chư Phật Bồ tát để bay ra ngoài vũ trụ vô biên
vì họ có thể rớt xuống vực thẳm bất cứ lúc nào. Chư Phật Bồ tát khi ấy
sẽ đóng vai trò của người bạn lành duỗi tay nâng đỡ.