Phật giáo không kêu gọi sự tin tưởng mù quáng nơi những ngưới
tin theo . Ở đây , sự tin tướng thuần túy bị hạ bệ và được thay thế
bởi sự tự tin dựa trên hiểu biết gọi là tín tâm ( hay Saddha trong ngôn
ngữ Pali ) , Niềm tin mà người Phật tử đặt vào Đức phật cũng giống như
niềm tin của người bệnh đặt vào một thầy thuốc giỏi , hay niềm tin củ
người học trò đặt vào người thầy của mình . Một người Phật tử quy y
Phật chỉ vì chính đức Phật là người tìm ra và và dạy cho Phật tử ấy con
đường giải thoát . Một người Phật tử không quy y Phật với hy vọng là
Đức Phật sẽ cứu rỗi mình bằng sự thanh tịnh của Ngài . Đức Phật không
bao giờ đưa ra lời bảo đảm ấy . Đức Phật không nhận rằng Ngài có năng
lực thanh tẩy mọi cấu uế của kẻ khác . Không ai có thể làm thanh tịnh
ai hoặc làm uế nhiễm ai .
Làm rõ mục tiêu của người học Phật
Giáo pháp của Đức Phật nhắm tới việc hướng dẫn con người thoát khỏi
những điều bất hạnh và sự đau khổ , đồng thời chỉ cho họ con đường đạt
tới hạnh phúc và an lạc cao nhất . Với lòng từ bi vô lượng của Ngài ,
suốt 45 năm , Đức Phật đã dạy cho toàn thể loài người về nhân và duyên .
Mục tiêu của sự giáo huấn ấy là giúp con người có thể hiểu được những
hành động nào nên theo và những hành động nào nên tránh . Vậy thì , mục
tiêu tối hậu của chúng ta trong lúc học theo giáo pháp của Đức Phật
phải là hãy học để phân biệt đươc những lối sống tai hại , gây hủy diệt
với những lối sống tốt đẹp , mang lạy lợi ích ; học để phân biệt được
những lối sống gây đau khổ với những lối sống đưa tới an lạc thanh bình
.
Mục đích của việc học tập và hành trì Phật pháp
Phật giáo là lối sống công bằng mang lại hạnh phúc và an bình cho
mọi chúng sinh ; và phương pháp gạt bỏ maoi5 đau khổ và bất hạnh để tìm
đến sụ tự giải thoát . Giáo pháp của Đức Phật không giới hạn vào quốc
gia nào hay chủng tộc nào , đó là giáo pháp dành cho mọi người . Phật
giáo không chỉ là tín ngưỡng hay một niềm tin đơn thuần . Đó là giáo
pháp chp toàn thể loài người thuộc mọi thời đại . Mục tiêu của Phật giáo
là sự phục vụ vô ngã , là thiện chí , là hòa bình , là sự cứu giúp ,
và là sự tự do trước mọi đau khổ . Không gây hại và có thiện chí là
những yếu tố mà mọi tôn giáo đều nói tới . Nhưng hơn thế nữa , Phật
giáo dựa trên những nhuyên lý hòa bình , bình đẳng , hài hòa ; cho nên
trong Phật giáo không có chỗ cho lòng ghen tức hay sự bạo động . Niềm
tin của Phật giáo về thiện chí và lòng từ tâm dựa trên sự hy sinh và
tinh thần phục vụ để mang lại bình an và hạnh phúc cho người khác . Cho
nên , những nguyên lý của tôn giáo nên được áp dụng một cách tích cực
nhằm cải thiện phẩm chât cuộc sống cho tất cả mọi chúng sinh . Việc
thực hành giáo pháp của Đức Phật sẽ làm phát triển sự thức tỉnh tự nội ,
lòng từ bi và tuệ giác . Một trong những lý do khiến Phật giáo có sức
cuốn hút đối với giới trí thức và những người có trình độ học vấn cao
nằm ở chỗ chính Đức Phật đã thực sự khuyên mọi tín đồ đừng tin vào
những gì được nghe mà không kiểm chứng giá trị của chúng .
Phật giáo là một tôn giáo cao quý , một nền triết học nơi đó khai
thác tối đa sự công chính , sự bình đẳng và sự hòa bình . Chủ đề trung
tâm cảu Phật giáo là sự giữ gìn . Giáo pháp của Đức Phật dạy rằng phụ
thuộc vào người khác để được cứu giúp là tiêu cực , chỉ có trông chờ vào
chính mình mới là tích cực . Giáo pháp ất giải thích thêm rằng phụ
thuộc vào người khác có nghĩa là đầu hàng trước sự thong minh , sự thự
tin và những nổ lực của người khác . Hơn nữa Phật giáo công nhận sự hiểu
biết và những nỗ lực của con người về mọi thành tựu , chứ không công
nhận một đấng siêu nhiên nào . Kinh Tương Ưng Niệm Xứ dạy rằng : Trong
khi hộ trì cho mình , là hộ trì người khác , trong khi hộ trì người
khác là hộ trì cho mình ..Thế nào là trong khi hộ trì người khác là hộ
trì cho mình ? Chính là do sự kham nhẫn , do sự vô hại , do lòng từ , do
lòng bi mẫn .
Điều quan trọng là phải nhận thức rằng sự cứu giúp theo lời dạy của
Đức Phật , là một vấn đề cá nhân . Chỉ có hành giả mới cứu giúp được
chính hành giả ; hệt như hành giả tự ăn , tự uống , tự ngủ nghỉ . Giáo
pháp của Đức Phật chỉ là phương tiện cho thấy con đướng đúng để thành
tựu sự cứu giúp ấy . Đức Phật không hề giảng pháp để cải tạo ai cả .
Ngài giảng pháp chỉ để người nghe được giác ngộ . Về phương diện này ,
Phật giáo không bi quan mà cũng chẳng lạc quan . Phật giáo không khuyến
khích con người nhìn vào cuộc đời thông qua những cảm giác thường xuyên
biến đổi vì tính bi quan hay sự lạc quan của con người . Phật giáo
khuyến khích con người hãy thực tế , hãy học để thấy cuộc đới đúng như
nó hiện là .
Phật giáo là hiện thực
Phật giáo có một cái nhìn hiện thực đối với cuộc đời . Phật giáo
không giả vờ đẩy chúng ta vào sống trong một thiên đường giả tưởng ,
cũng không hề dọa dẫm hay khủng bố chúng ta về những sợ hãi tưởng tượng
hay những cảm giác tội lỗi . Phật giáo gọi tên một cách chính xác và
khách quan ta là gì và thế giới ta đang sống là gì ; đồng thời chỉ cho
ta thấy con đường hoàn thiện sự tự do , hòa bình , an lạc và hạnh phúc .
Phật giáo hoàn toàn trái ngược với thái độ bất mãn , lo lắng , hối hận
và u sầu của tâm thức , thực tế vốn dược coi là trở ngai cho việc thực
hiện Chân lý . Mặt khác giáo lý của Đức Phật nhấn mạnh rằng niềm vui (
hay hỷ ) chính là một trong Bảy giác chi , những phẩm chất thiết yếu
phải được rèn luyện để thực hiện Niết- bàn .
Một trong những cách để hiểu biết rõ về sự sống là hiểu biết về cái
chết , vốn chẳng gì khác hơn sự chấm dứt tạm thời của một sự hiện hữu
tạm thời . Tuy nhiên , hầu hết chúng ta đều không thích nghe đến từ “
chết ”. Nhưng dù cho chúng ta có thích hay không , chết là sự kiện chắc
thật duy nhất trong cuộc sống của chúng ta , nó đến một cách từ từ .
Mặc dù vậy , những hồi ức về cái chết với một thái độ tâm thức đứng đắn
có thể mang lại cho con người sự can đảm , sự hiểu biết , và một cái
nhìn thấu suốt vào bản chất của sự hiện hữu ; đồng thời phát triển được
một sự bình tĩnh khi đối mặt với cái chết . Trong khi người phương Tây
tìm cách chinh phục vũ trụ cho những mục đích vật chất , Phật giáo và
nền triết học phương Đông cố gắng đạt tới sự hòa hợp với thiên nhiên ,
với môi trường , với sự thỏa mãn về tâm linh .
Hầu hết những kẻ giàu có trong thế giới ngày nay , mặc dù những của
cải và những phương tiện hiện đại của họ , vẫn luôn đau khổ vì sự bấp
bênh của cuộc đời , vì những lo lắng và vô số những vấn đề về thân và
tâm . Với tất cả tiền bạc và những mối giao tiếp mà họ có , họ không thể
tìm được giải pháp cho những vấn đề và sự đau khổ của họ . Ngược lại ,
một người nghèo nhưng đã học được sự hài lòng có thể hưởng thụ cuộc
sống của mình một cách thanh thản , hơn hẳn những người giàu có nhất .
Khi đã hài lòng , người ta chẳng có gì để mất và có rất ít lo âu .
Có những kẻ có quá nhiều nhưng vẫn khao khát
Tôi có chút ít mà chẳng tìm kiếm thêm
Vậy thì họ vẫn nghèo tuy họ có quá nhiều thứ
Còn tôi thì giàu với những thứ ít ỏi của mình
Họ nghèo , tôi giàu , họ xin , tôi cho
Họ thiếu , tôi thừa , họ mõi mòn , tôi an vui .
Phật giáo kêu gọi trí tuệ hơn là tình cảm . Phật giáo quan tâm đến
phẩm chất của tín đồ hơn là số lượng tín đồ . Nền tảng của Phật giáo là
Tứ thánh đế , gồm có Khổ , nguyên nhân của Khổ , sự chấm dứt Khổ ( hay
Niết- bàn ) và Con đường ở giữa ( hay Trung đạo ). Nhiều người nghĩ
rằng Phật giáo là cả một hệ thống uy nghi , chẳng thể nào có ngu phu ,
ngu phụ thực hành được . Người khác lại cho rằng chỉ trong các chùa
chiền hay tu viện người ta mới có thể thực hành theo đạo Phật . Những
hiểu lầm ấy sở dĩ có là vì người ta không hiểu rõ giáo pháp của Đức
Phật không chỉ dành cho các vị xuất gia trong các tu viện . Giáo pháp
ấy dành cho mọi người bình thường như Tôi và Các bạn . Tứ diệu đế và Bát chánh đạo
, lối sống của Phật giáo , là nhắm tới mọi người . Khi một người hiểu
được tinh thần đạo Phật một cách đúng đắn , ngưới ấy có thể thực hành
đạo Phật ở bất cứ nơi nào .
Nguồn : Perfecting Life through Buddhism , Sunil J . Wimalawansa Buddhist Channel
Sunil J. Wimalawansa là giáo sư y khoa chuyên về
Sinh lý học và Sinh học hệ thống tại Trường Y Khoa Robert Wood Johnson
thuộc Đại học New Brunswick , bang New Jersey , Hoa Kỳ ; một trong
những người có thành tựu trong việc nghiên cứu điều trị bệnh tiểu đường
.
SUNIL J. WIMALAWANSA ( TRẦN KHIẾT BÁCH dịch )
Theo: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 127