Hỏi: Tri kiến
lập tri, tức vô minh bổn là gì? Tri kiến là gì và lập tri là gì? hai thứ tri đó
có khác biệt nhau không?
Đáp: Kinh
Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”, cái “Lập tri” ấy
tức là tự tri. Thế gian nói “Tri”, nói “Kiến” ấy là thế lưu bố
tưởng, Phật cũng nói là tri là kiến , nhưng không có chấp cái tri ấy là
thật, nên chẳng có lập tri, nên nói “Tri kiến vô kiến, tư tức Niết bàn”.
Nay do tập khí từ lâu đời, chúng ta việc gì cũng muốn tri, muốn kiến, Phật muốn
thuyết pháp độ chúng sanh cũng phải tùy thuận chúng sanh,cũng phải nói tri, nói
kiến, nhưng không chấp đó là thật; hễ chấp thật tức tự lập cái tri, là căn bản
của vô minh, nếu không kiến lập tức Niết bàn.
Trong Kinh Lăng nghiêm nói “Tại
sao và khi nào phát sinh cái vô minh ? Ấy là bởi cái giác có minh, chính cái
“minh” đó là tri. Từ sở minh lập ra năng minh, do tri đó mới sanh ra tri tịch
và tri vọng; từ minh đó sanh ra năng minh sở minh, năng chiếu sở chiếu, hễ năng
sở lập thì tánh chiếu bị đánh mất.
Tự tánh chẳng phải tri, chẳng
phải vô tri, chẳng thể dùng lời của thế gian diễn tả , nhưng vì lời của thế
gian nói tri nói kiến là thế lưu bố tưởng, nên Phật phải nói tri nói kiến. Thật
ra Tự tánh chẳng thể kiến lập cái tri, hễ có kiến lập tức là chúng sanh, tức là
bệnh.
Nói chữ “vọng” cũng chỉ là thế
lưu bố tưởng, nếu chấp thật có vọng thì sanh ra trước tưởng, nếu vọng chẳng
phải thật thì buông bỏ cái gì ? Có tâm muốn buông bỏ đã là chấp cái vọng là
thật rồi! Nên trong Thiền tông, Tổ sư kiến tánh có bài kệ rằng:
Nhược nhơn kiến huyển bổn lai chơn,
Thị tắc danh vi kiến Phật nhơn”.
Ý nói nếu người nào thấy huyển vốn là chơn thì người ấy tức đã thấy Phật
vậy.
- Trong Pháp Bảo Ðàn Kinh nói
về vấn đề “ Chánh niệm” rằng “Vô niệm niệm tức chánh”, vô niệm mới là chánh
niệm. Lại, ngài Lục Tổ sợ người hiểu lầm hai chữ VÔ NIỆM thành niệm đoạn diệt,
nên giải thích thêm: ”Hễ niệm đoạn diệt tức là chết, phải đầu thai đổi lấy thân
khác”, nên vô niệm chẳng phải là niệm đoạn diệt. Ngài lại giải thích: “Lục thức
ra cửa lục căn, ở ngoài lục trần, chẳng nhiễm chẳng trước ấy mới là vô niệm”
chứ chẳng phải đoạn diệt, đoạn diệt tức là chết. Chẳng sanh ra trước tưởng mới
là vô niệm, hễ sanh ra trước tưởng tức có niệm; chẳng sanh ra trước tưởng chứ
chẳng phải không có thế lưu bố tưởng. Trong kinh Pháp Bảo Ðàn không cho giữ
“Niệm chánh”, tà chánh đều phải quét, bởi chánh với tà là tương đối. Ở Thiền
tông là không cho giữ bất cứ cái gì, luôn cả chánh niệm cũng phải quét.
Ngài Vĩnh Gia đại sư có 4 câu
kệ để phá cái tri (giác). Kinh Lăng Nghiêm
nói: ”Kiến văn giác tri đều là bệnh của chúng sanh từ vô thỉ." ấy là kiến
bệnh, như con mắt bệnh thấy hoa đốm trên không, nếu con mắt chẳng bệnh thì
chẳng thấy hoa đốm trên không vậy. Bốn bài kệ của ngài Vĩnh Gia là:
Bài thứ nhất:
Nhược dĩ tri tri
tịch, thử phi vô duyên tri,
Như thủ chấp như ý,
phi vô như ý thủ.
- Nếu lấy sự
tri để tri cái tịch lặng, sự tri là năng, tịch lặng là sở, có năng tri, sở tri
thì chẳng phải vô duyên tri, vô duyên là không có năng sở. Nay có cái tri để
tri tịch, cái tịch này còn chưa phải là vọng, và cái tri ấy chẳng phải vô duyên
tri, như dùng tay nắm cây như ý. Tôi thường nói về cái dụng của tự tánh
automatic, hoạt bát vạn năng, nay dùng tay nắm cây như ý rồi thì chẳng phải tay
không có cây như ý. Tay nếu không chấp cây như ý thì hoạt bát vạn năng, lấy cái
bình, cái tách,..lấy gì cũng được. Hễ chấp cây như ý trong tay là đánh mất tánh
hoạt bát vạn năng của tay, lấy cái gì cũng chẳng được, do có năng sở vậy. Tự
tánh hoạt bát, chẳng có năng sở đối đãi, nên chư Phật chư Tổ dạy mình quét,
khôi phục tánh hoạt bát vạn năng, đây là lớp thứ nhất.
Bài thứ hai:
Nhược dĩ tự tri tri, diệc phi vô
duyên tri,
Như thủ tự tác quyền, phi vô tác
quyền thủ.
- Cái năng tri của bài thứ nhất, trở thành cái sở tri
của bài thứ hai, tức tự biết mình có sức năng tri, mặc dù chưa có sở tri, nhưng
chính cái tri đó đã trở thành sở tri rồi: Tự mình là năng, cái tri là sở, cũng
chẳng phải vô duyên tri, chẳng phải là cái tri không đối đãi của tự tánh. “Tự
biết mình có cái năng tri ấy như tự nắm thành quyền ( nắm tay), chẳng phải là
cái tay hoạt bát vạn năng (không nắm lại), nên vẫn phải quét mới khôi phục được
tánh hoạt bát vạn năng.
- Lớp thứ
nhẩt (bài 1) là tri tịch, lớp thứ hai là tri vọng, tri tịch còn không được,
huống là tri vọng! Ðây là những bài kệ phá tri của ngài Vĩnh Gia, như Kinh Lăng
Nghiêm nói “ Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”, nên Thiền tông nói một chữ TRl
là cửa tai họa. (Tri chi nhất tự, chúng họa chi môn,)
(Trích Đoạn Duy Lực Ngữ
Lục Tập 1, Thành Hội PG TP Hồ Chí Minh xuất bản 2000)