Đó là hai câu hỏi mà Tuần Việt 
Nam đã đặt ra cho tôi để phỏng vấn về Phật giáo đời Trần nhân dịp kỷ 
niệm Ngàn năm Thăng Long.Tôi hứa sẽ trả lời, không phải trong một cuộc 
phỏng vấn mà trong một dịp khác, và dịp đó là đây, giữa Tuần Lễ Văn Hóa 
Phật Giáo này.
 Thật lòng, tôi đã rất ngạc nhiên khi 
nghe hai câu hỏi này. Phật hoàng Trần Nhân Tông, thiền Trúc Lâm Yên Tử, 
và ảnh hưởng của Phật giáo trong chiến thắng Nguyên Mông đã được thảo 
luận nhiều rồi trong sách vở và trong các cuộc hội thảo, làm sao tôi có 
thể nói thêm điều gì mới lạ trong tình trạng tư liệu ít ỏi đã được khai 
thác lâu nay? Riêng về thiền tông đời Trần, có ai giảng giải rành mạch 
và đủ thẩm quyền hơn Hòa thượng Thanh Từ? Có ai vừa giàu tưởng tượng vừa
không sợ đưa ra những giả thuyết độc đáo bằng học giả Lê Mạnh Thát? Ấy 
là chưa kể bao nhiêu bài viết công phu, đầy giá trị, của các nhà trí 
thức trong và ngoài Phật giáo. Để trả lời hai câu hỏi đó, tôi chỉ cần 
nói: xin đọc lại những gì mà các vị ấy đã viết. 
 Nhưng tôi lại nghĩ, và điều này lại 
càng làm tôi ngạc nhiên hơn: chẳng lẽ, với bao nhiêu công trình nghiên 
cứu đó, vẫn cứ có câu hỏi đặt ra, như tuồng vẫn còn hoài nghi về sự có 
thực của của một dòng thiền đặc biệt Việt Nam? Chẳng lẽ vấn đề cần làm 
sáng tỏ hơn nữa? Chẳng lẽ lý luận chưa đủ vững chắc? Chẳng lẽ vẫn cần 
phải nói thêm?
 Vì bắt buộc phải trả lời hai câu hỏi 
nói trên, tôi đánh liều nói thêm, hy vọng không phải là thừa. Tôi nói 
thêm bằng cách mở một cánh cửa hình như chưa mở: cánh cửa của phương 
pháp so sánh, so người để biết ta. Tôi muốn so ta với Nhật, vì cả hai 
cùng có chung một vấn đề: làm thế nào thu nhập thiền từ Trung Hoa đến, 
làm thế nào chuyển một của báu từ ngoài vào để biến thành của báu của 
mình? Người Nhật tự hào đã chuyển biến được, và ai cũng đều công nhận có
một thiền tông Nhật Bản chẳng giống ai, vậy ta xét trường hợp của họ để
so sánh với ta xem sao. Cái gì làm họ đã thành họ, xét cho kỹ, biết đâu
ta sẽ thấy ra cái gì đã làm ta thành ta? Vậy, từ đầu, thiền đã nảy mầm ở
Nhật như thế nào?
Phật giáo ở Nhật
Thiền vào đất Nhật rất trễ, sau ta 5 thế
kỷ, nhưng trước khi Trần Thái Tông viết Khóa Hư Lục vài chục năm, Nhật 
đã sản sinh ra một thiền sư xuất chúng, một triết gia lỗi lạc bậc nhất 
trong lịch sử Nhật mà ảnh hưởng vẫn còn sâu đậm trên thiền học thế giới 
cho đến ngày nay: đó là Đạo Nguyên (Dogen), người đã xây dựng nên thiền 
tông Nhật. Cùng một thời đại, cùng là những nhà cải cách Phật giáo, cùng
là những tư tưởng gia cỡ lớn, cùng bắt tay đặt nền móng cho ngôi nhà 
thiền, mỗi người trên dải đất của mình, sự so sánh hoàn toàn có thể được
giữa thiền học đời Trần và thiền học của Đạo Nguyên để biết đâu là Nhật
đâu là ta, đâu là nét đặc thù của Việt Nam, đâu là ảnh hưởng của nét 
đặc thù đó trên xã hội, trên chính trị, trên quân sự, trên chiến thắng 
ngoại xâm. 
Bởi vậy, tôi bắt đầu với Đạo Nguyên và 
thiền học của ông. Nhưng để hiểu Đạo Nguyên đã cải cách Phật giáo như 
thế nào và tại sao, tôi lại phải nói sơ lược về tình hình Phật giáo ở 
Nhật trước Đạo Nguyên. Trên điểm này, có nhiều chỗ tương đồng thú vị 
giữa Phật giáo ở ta và Phật giáo ở bạn. Tương đồng thứ nhất là ở chỗ 
thịnh suy, có thịnh suy mới có cải cách. Tương đồng thứ hai là mối liên 
hệ giữa mật tông với Phật giáo cung đình, và giữa tịnh độ với Phật giáo 
quần chúng. Tôi đi vào chi tiết.
Phật giáo được du nhập vào Nhật từ Triều
Tiên giữa thế kỷ thứ 6. Như đất khô gặp mưa, triết lý mới, văn hóa mới,
tôn giáo mới, ánh sáng mới đó được vua Thái Đức (Shotoku) trọng dụng để
xây dựng Nhà nước và củng cố xã hội. Rất thịnh cho đến cuối thế kỷ thứ 8
với kinh đô ở Nara, Phật giáo bắt đầu suy thoái vì một lý do giản dị 
muôn đời: hễ thịnh thì sinh ra lạm dụng. Chùa chiền xây nhiều quá, kỷ 
luật tu hành lỏng lẻo quá. Ở ta, cuối đời Lý, tình trạng không khác.
Suy thoái ở Nara, Phật giáo chấn chỉnh 
lại khi kinh đô được dời từ Nara về Kyôto. Hai tông phái mới phát triển ở
kinh đô mới: thiên thai tông và mật tông. Thiên thai thì quá triết lý, 
cao siêu, mật tông thì quá hình thức, nghi lễ, cầu đảo, cả hai đều thích
hợp với tầng lớp quý tộc ở cung đình. Đến cuối thế kỷ 11 thì hầu hết 
giới tăng lữ ở cấp cao của tông thiên thai đều xuất thân từ quý tộc. 
Phật giáo ở Kyôto là Phật giáo quý tộc, cung đình.
Suốt hậu bán thế kỷ 12, nước Nhật lâm 
vào một trận nội chiến khủng khiếp, thậm chí cha con, anh em giết nhau. 
Từ nội chiến đó, lịch sử nước Nhật bước qua một giai đoạn khác hẳn, vì 
quyền hành không còn thuộc về vua nữa. mà về tay các samourai. Giai cấp 
quý tộc nhường chỗ cho giới võ sĩ  trong đó lắm người thất học. Kamakura
là thủ phủ của họ, cầm đầu là Tướng Quân (Shogun), trị vì suốt 7 thế 
kỷ. 
Giữa thời đại hỗn loạn đó, đạo Phật vẫn 
còn giữ được hào nhoáng bề ngoài, nhưng bên trong thì mất nhuệ khí, sáng
tạo, không đủ sức để cung cấp cho con người một niềm tin giản dị, dễ 
nhận, dễ hiểu. Từ đó, xuất hiện ba hình thức Phật giáo mới mà các sách 
Nhật gọi là mang sắc thái tâm linh đặc biệt Nhật: một là tông Tịnh Độ, 
hai là Thiền tông và ba là Nhật Liên tông. Phật giáo của kinh đô Kyôto 
biến thành Phật giáo của tướng phủ Kamakura và thiền tông bắt gặp hưởng 
ứng nồng nhiệt của Tướng Quân và của giai cấp võ sĩ.
Như vậy, trước Đạo Nguyên, thiền đã du 
nhập vào đất Nhật, với Eisai (1141-1215). Nhưng Đạo Nguyên vẫn cho rằng 
đó chưa phải là thiền thực sự, cho nên ông vượt biển sang Trung Hoa của 
nhà Tống để tìm thầy học đạo. Và ông đã học, đã ngộ, đã trở thành người 
khai sáng dòng thiền của Nhật.
Đạo Nguyên: ngồi!
Thầy đầu tiên của Đạo Nguyên là 
Jou-tsing. Ông học gì trước hết? Tọa thiền. Jou-tsing ngồi thiền cả 
ngày, cho đến 11 giờ khuya, rồi lại dậy ngồi thiền từ 3 giờ sáng. Chỉ 
thế thôi. Không dạy gì khác. Đạo Nguyên cũng ngồi như vậy, hết ngày đến 
đêm, thề chết cũng ngồi, mà nếu chết thì cứ lấy ngồi làm vốn, kiếp sau 
ngồi nữa. Về sau, ông dạy: giác ngộ là nhờ tọa thiền; ngay cả người 
không hiểu gì cả, người dốt, người ngu vẫn có thể vượt qua người thông 
minh, đầy kiến thức, nếu cứ kiên trì tọa thiền, lấy ánh sáng từ định. 
Bởi vậy, ai muốn học đạo chỉ cần duy nhất tọa thiền, không học gì khác. 
Thế có học quán không? Có quán công án? 
Đạo Nguyên trả lời dứt khoát: "Dù cho ai đó nghĩ rằng mình có hiểu đôi 
chút công án, điều đó cũng dẫn xa Phật, xa Tổ. Cứ ngồi cho đúng, chẳng 
cần muốn được gì hay hiểu gì. Cứ ngồi mãi như vậy. Đó là Đạo của Tổ. Các
vị tiền bối cũng khuyên kết hợp quán công án với tọa thiền, nhưng các 
vị ấy khuyên trước hết hãy tọa thiền. Cũng có người ngộ đạo nhờ công án,
nhưng điều đó là nhờ công năng duy nhất của thiền tọa. Muốn thành công 
phải tìm trong tọa thiền" (1). Quả quyết chắc nịch.
Như vậy mà Đạo Nguyên chứng ngộ. Ông 
chứng ngộ lúc 26 tuổi, trở thành tổ thứ 8 của phái thiền Tào Động. Trở 
về Nhật, có người hỏi ông đã học được gì ở Trung Hoa, ông nói: học được 
mắt ngang mũi dọc.
Chân lý của ông cũng chắc nịch như mũi 
dọc mắt ngang. Chỉ ngồi, chỉ ngồi, chỉ ngồi. Không làm gì. Không tìm gì.
Không chờ đợi gì. Nhờ định, tuệ sáng. Như con rồng gặp nước, như con 
cọp gặp rừng. Thực hành, thực hành, thực hành: tọa thiền với giác ngộ là
một.
Giác ngộ đến từ thực hành
Vì vậy giác ngộ là vô biên.
Thực hành đến từ giác ngộ 
Vì vậy thực hành không có khởi thủy (2) .
Ông đả kích kịch liệt việc tụng kinh: 
tụng kinh cũng giống như ễnh ương kêu ngoài ruộng. Ông coi trọng việc 
giữ giới, nhưng ông quả quyết rằng tọa thiền sâu và đúng thì đương nhiên
giới cũng được giữ. Thế người tu thiền có được tu theo pháp môn nào 
khác không? Không! Nhất quyết không! "Đừng bám vào lời, vào chữ; hãy 
nhìn vào mình mà quán. Như vậy, thân và tâm tự nhiên biến mất và Phật 
tính nguyên thủy hiện ra" (3). Buông cả thân lẫn tâm, vất cả thân lẫn 
tâm vào nhà của Như Lai: đó là lời dạy căn bản của Đạo Nguyên. Ông đã 
giác ngộ trên khám phá đó. 
Thiền của Đạo Nguyên trở thành một tông 
phái độc lập, vừa thay thế cho Phật giáo cung đình đã biến chất, vừa đối
lập với tông phái tịnh độ đang phát triển song song. Khỏi cần nói, Đạo 
Nguyên đả kích Khổng và Lão. Ông đanh thép, cứng rắn với cả quan niệm 
thông thường về chữ hiếu. Tôi nói thêm chút ít về điểm này để nhấn mạnh 
lòng tin tuyệt đối của ông về cách tu thiền thuần túy, khai tuệ nhờ 
định:
Học trò của ông, Ejô, có mẹ đau, gần 
chết, muốn thấy mặt con lần cuối. Theo luật của tu viện, mỗi tháng thiền
sinh chỉ được phép ra ngoài hai lần, mỗi lần không quá ba ngày. Ejô về 
nhà thăm mẹ hấp hối là việc gần như tự nhiên, nhưng ông đã hết phép rồi.
Ông hỏi ý kiến mọi người và ai cũng đồng ý là ông chỉ cần xin phép là 
xong: thăm mẹ gần chết là việc trọng đại, khác với các duyên cớ lặt vặt 
thông thường. Câu chuyện đến tai Đạo Nguyên. Đạo Nguyên nói: "Chắc chắn 
Ejô không ra khỏi tu viện, chắc chắn Ejô không đồng ý với các thiền sinh
khác". Quả thật vậy. Ejô trả lời bạn bè: "Nguyên tắc của tu viện quan 
trọng hơn là lời khuyên của tập thể. Nếu tôi làm theo ý mẹ và vì vậy mà 
vi phạm nguyên tắc của chư Phật, chẳng phải tôi cũng làm trái với đạo 
hiếu hay sao? Nếu tôi vi phạm nguyên tắc của chư Phật, đó là tội lớn 
nhất cuối cùng mà mẹ tôi phạm. Người tu hành phải đưa cha mẹ vào con 
đường giác ngộ. Chẳng lẽ tôi làm mẹ tôi vĩnh viễn sa xuống địa ngục bằng
cách buông theo tình cảm mẹ con trong chốc lát? (4)
Đây không phải chỉ là chi tiết. Đạo 
Nguyên cực kỳ nghiêm minh trong kỷ luật. Từng sự việc cụ thể trong ngày,
dù nhỏ đến bao nhiêu, cũng phải làm cho đúng: từ súc miệng, rửa mặt, 
gội đầu. Ông than phiền về mấy ông sư bên Tàu, không chịu súc miệng, xỉa
răng, miệng nói có mùi. Ông viết cả một chương trong sách để nói về rửa
mặt. Từng chi tiết đó, ông dạy cho đệ tử với tất cả nghệ thuật, như một
đạo diễn tài ba dạy cho diễn viên từng cử động nhỏ của bàn tay. Nói gì 
việc ngồi thiền! Ông dạy rất kỹ về kỹ thuật ngồi, gian phòng phải như 
thế nào, ăn uống làm sao, áo quần làm sao, tai phải ngang vai thế nào, 
mũi phải ngang rốn làm sao… Đâu phải chi tiết! Đâu phải tự nhiên mà 
thiền được tầng lớp võ sĩ hưởng ứng! Đâu phải tình cờ mà thiền đi vào 
văn hóa của Nhật! Cho đến ngày nay tiếng nói của Đạo Nguyên vẫn còn thét
lên bên tai các thiền sinh ở Mỹ, ở Tây phương: "Ngồi! Ngồi! Just sit!"
Nhưng có thật just sit là đủ để giác 
ngộ? Nếu chắc chắn Đạo Nguyên nói không sai thì cũng chắc chắn Đạo 
Nguyên không phải là người chỉ biết ngồi. Ông là triết gia hàng đầu của 
Nhật, sách ông viết vẫn còn là chữ nghĩa gối đầu giường ở Âu Mỹ, ông 
thuộc làu kinh kệ, thơ của ông thơm tho trong sử thiền của thế giới, vậy
nếu ông bảo vất hết chữ nghĩa thì ai dám làm theo một cách máy móc? Sử 
thiền ngày nay trách ông đã quá cực đoan, tự cho mình là Phật giáo chính
thống, còn tất cả đều trật hướng, kể cả thiền Lâm Tế, nói gì Tịnh Độ. 
Ông dám chỉ trích, dù chỉ là gián tiếp, cả Lục Tổ Huệ Năng, cho rằng 
kinh Pháp bảo đàn không phải là của ngài.
Nhưng thế đấy, sử sách xem Đạo Nguyên 
như đích thực là người khai sáng thiền tông ở Nhật, và phái Tào Động mà 
ông là Tổ ở Nhật vẫn còn giữ được tính thống nhất cho đến ngày nay như 
là nhánh chính của cây thiền ở đất Phù Tang. 
Vậy nghĩ gì khi so sánh nhà tư tưởng lớn
nhất của Nhật và nhà tư tưởng lớn nhất của Việt Nam, Trần Thái Tông, 
đồng thời với nhau, đồng thời là những nhà cải cách, đồng thời là những 
Tổ thiền - nếu ta so sánh thêm với Trần Nhân Tông? Đã đành, không thể so
sánh tình trạng của thiền tông ở Nhật với thiền tông ở Việt Nam lúc đó,
vì thiền được truyền vào Nhật sau Việt Nam đến 5 thế kỷ, và thiền tông 
đã phát triển rất mạnh, đã có nhiều thiền sư rất lớn ở Việt Nam suốt đời
Lý. Thế nhưng, đứng về mặt chứng ngộ, đứng về mặt uyên bác, đứng về mặt
cá nhân, ba vị tổ sư thiền đó có thể so sánh với nhau, và qua đó, thấy 
rõ sắc thái của nhau, ở Nhật và ở ta.
Cái gì là khác biệt căn bản giữa thiền 
của Đạo Nguyên và thiền của đời Trần? Một điểm thôi, nhưng đó là tinh 
túy: thiền của Đạo Nguyên cực đoan, thiền của đời Trần không cực đoan.
Trần Thái Tông: dung thông 
Chữ "cực đoan" ở đâykhông bao hàm một 
phán đoán tốt xấu; vỏn vẹn chỉ là một nhận xét. Nếu ta đọc lại cuộc đời 
của các thiền sư đời Lý, hầu như ai cũng lấy nhập định làm cách tu hành,
nhập định cả ngày cả đêm, không thua gì Đạo Nguyên, có vị ngồi suốt ba 
ngày mới xuất định, nhưng chẳng ai chủ trương just sit. Đến Trần Thái 
Tông thì tinh thần dung thông, tránh cực đoan, nổi bật như trăng sáng 
giữa trời. Mở Khóa Hư Lục, thấy gì đầu tiên? Năm giới. Gì nữa? Niệm 
Phật. Gì nữa? Sám hối. Dâng hương. Gì nữa? Giảng kinh. Ngồi thiền không 
loại bỏ niệm Phật, học kinh, và gì nữa? Nhận ra Di Đà! "Nên biết mạng 
người khó thường, chớ để thời này qua rỗng. Nhìn thấy Tịnh Độ trước mắt,
nhận ra trong tâm Di Đà".
Đường lối tu thiền đời Trần, bắt đầu từ 
Trần Thái Tông, là như thế: thiền, giáo, tịnh, không loại bỏ ai. Thú 
thật, tôi tụng kinh Di Đà nhiều lần mà chỉ hiểu được tướng lưỡi dài rộng
của Phật sau khi đọc Khóa Hư Lục. Trong mười hai nguyện đọc khi dâng 
hương đầu hôm, nguyện thứ chín là "chín nguyện lưỡi dài cùng Phật phủ". 
Tại sao lưỡi Phật lại dài rộng phủ cả mặt? Là vì trong ba đời, Phật chưa
hề nói dối! Khuyên chúng ta đừng nói dối, Trần Thái Tông trích kinh Di 
Đà! Hèn gì lưỡi tôi ngắn ngủn! 
Mà Trần Thái Tông cũng không loại bỏ 
Khổng với Lão. Khổng Tử, Lão Tử xuất hiện nhiều lần trong Khóa Hư Lục, 
với tất cả thành kính của Vua. "Sách Nho dạy: "Thi ân bố đức". Kinh Đạo 
dạy: "Ái vật háo sanh". Ấy là Vua trích Khổng Lão để dạy giới cấm sát 
sanh trong đạo Phật. Vua còn khen Tử Cơ, Nhan Hồi ngồi yên cả ngày "thân
như cây khô", "tay chân rời rã": Tử Cơ tu tiên, Nhan Hồi là học trò 
cưng của Khổng. Dung thông thiền, giáo, tịnh, Trần Thái Tông còn dung 
thông cả Khổng với Lão, không cực đoan với ai. Sách vở đã nói nhiều về 
điểm này, tôi không cần phải nói thêm. Chỉ xin đặt một câu hỏi: như vậy 
phải chăng thiền của Trần Thái Tông là một thứ cháo hổ lốn? Một tả pí 
lù?
Đâu phải! Đặt câu hỏi một cách vô lễ như
vậy cốt để biết rằng thiền của đời Trần cao vòi vọi mà lại đặc biệt 
Việt Nam. Trần Thái Tông dung thông tất cả dưới ánh sáng của thiền. Tu 
Tịnh Độ? Rất hay, nhưng phải tu thế nào cho đúng nghĩa, đúng phép. Niệm 
Di Đà? Rất hay, nhưng ý nghĩa của niệm Di Đà là gì. Niệm Phật? Rất hay, 
nhưng Phật ở đâu? Dưới ánh sáng của thiền, Trần Thái Tông cắt nghĩa: 
Phật ở trong tâm, "phản chiếu hồi quang", xoay ánh sáng trở về chiếu soi
lại mình, thấy tánh giác của mình nơi mình là thấy Phật. 
Tôi khó lòng không trở lại với Đạo 
Nguyên để so sánh. Trước khi đi qua Trung Hoa để học thiền, Đạo Nguyên 
đã đọc rất nhiều kinh sách, và câu hỏi mà ông cho là căn bản, khiến ông 
trăn trở hoài không yên là một câu hỏi triết lý: "Kinh sách nói ai cũng 
có Phật tánh, vậy tại sao chư Phật còn phải tu hành gian khổ để tìm giác
ngộ?". Nếu Phật tánh đã có, tại sao phải tìm? Còn nếu Phật tánh phải tu
mới thấy, tại sao nói chỗ nào cũng có tánh Phật? Đạo Nguyên lang thang 
từ ông thầy này đến ông thầy khác cũng để trả lời câu hỏi đó. Nhưng câu 
hỏi ấy có khác gì câu của ông tăng hỏi Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục :
Người người vốn tự người ngưòi đủ
Mỗi mỗi xưa nay mỗi mỗi tròn.
Vì sao Thế Tôn vào núi tu hành?
 Vua đáp:
Kiếm vì bất bình mở hộp báu
Thuốc do trị bệnh ra khỏi bình.
Tánh giác ai cũng đủ, ai cũng đầy, vào 
núi tu hành chi nữa? Câu trả lời của Trần Thái Tông đúng là câu trả lời 
của ông vua thắng giặc Nguyên. Trong hộp lúc nào cũng nằm sẵn thanh kiếm
báu, nhưng vì bất bình, vì để cứu dân, trừ loạn, nên kiếm phải ra khỏi 
hộp. Thuốc hay vẫn nằm sẵn trong bình vàng, nhưng vì để trị bệnh nên 
thuốc phải ra. Vì lợi ích của chúng sinh, vì bệnh của chúng sinh, Thế 
Tôn phải đi tu.
Nhưng tu có phải để đi tìm tánh giác 
không? Cũng không! Đạo Nguyên dạy: cứ ngồi, đừng làm gì cả, đừng tìm gì,
tìm là hỏng, vướng vào cái chuyện tìm, dính mắc chuyện chứng đắc là tâm
dính bụi, là kẹt. Trần Thái Tông cũng dạy như vậy, bằng thơ:
Nước chảy xuống non đâu có ý
Mây bay qua núi vốn không tâm.
Cả hai cùng tu một pháp, cùng vào một 
cửa, cùng ngộ như nhau, nhưng khi truyền đạt, giáo huấn, dạy dỗ, áp 
dụng, một bên thì cực đoan, một bên thì diệu dụng. Tại sao? Tại vì một 
bên chỉ là ông thiền sư, bên kia ông thiền sư còn là ông vua! Ông thiền 
sư chỉ có vài trăm đệ tử, ông vua có cả một nước! Cả triệu dân! Trị nước
mà cực đoan thì hỏng. Huống hồ trị một nước nhỏ phải đối phó với xâm 
lăng như mối họa truyền kiếp. Đố ai tìm được một mưu chước nào khác để 
giữ nước ngoài quốc sách đoàn kết toàn dân.
Và như vậy, tôi đã bước qua câu hỏi thứ 
hai: phải chăng dòng thiền Yên Tử đã giúp Việt Nam đánh bại xâm lăng?
Thiền Yên Tử và chiến thắng 
xâm lăng
Trả lời của tôi là phải, vì lẽ giản dị 
mà ai cũng đều nói: một trong những yếu tố chính giúp nhà Trần đánh bại 
Nguyên Mông là đoàn kết quốc gia. Đoàn kết quốc gia là một. Lãnh đạo 
giỏi là hai. Cả hai yếu tố đều nằm trong thiền tông Việt Nam đời Trần, y
như kiếm báu nằm trong hộp.
 
 1. Đoàn kết quốc gia. Thử ngẫm mà xem: có đoàn kết nào bền chặt hơn 
đoàn kết tư tưởng? Rồi ngẫm mà xem đời Trần: vua Phật tử, vua thiền sư, 
vua tư tưởng gia, vậy mà Trần Thái Tông sùng kính Khổng Lão trong chính 
tư tưởng, chứ không phải chỉ dùng Khổng Mạnh như một dụng cụ chính trị. 
Khóa Hư Lục tôn trọng đến thế này: nếu liễu ngộ thì tam giáo đều giống 
nhau, bởi vì chỉ cần xoay lại ánh sáng rọi vào mình thì tánh giác ở ai 
cũng giống nhau. "Người chưa rõ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng 
ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quan, đều được kiến tánh thành 
Phật". Hòa thượng Thanh Từ giảng giải: "Dầu người tu theo Khổng giáo 
cũng có Phật, người tu theo Lão giáo cũng có Phật, và chúng ta tu theo 
Phật cũng có Phật. Ai cũng có Phật thì đều giống nhau. Không thể ông 
Phật này khác ông Phật kia được" (5). Thưa Hòa thượng, không phải ở đâu 
cũng được thế đâu. Trên thế giới hiện nay, ông thượng đế của tôi không 
phải là ông thượng đế của anh và chiến tranh hiện nay là chiến tranh 
giữa các ông thượng đế. Đời Trần để lại một gia bảo vô song cho văn hóa 
Việt Nam: "lấy thiền tông làm chỗ tựa để dung hợp Khổng Lão vào một 
nhà", như Hòa thượng Thanh Từ đã viết.Triết lý đoàn kết, nhưng không 
phải là triết lý ba phải. Từ lâu, ai cũng nói: tam giáo đồng nguyên là 
nền tảng của văn hóa Việt Nam. Đúng. Nhưng đừng quên: tam giáo đồng 
nguyên ở thời Lê không phải như vậy. Thời Lê đã để mất cái đặc sắc nhất 
của tinh hoa Việt Nam, nét độc đáo nhất, độc lập nhất của tư tưởng Việt 
Nam: lấy thiền tông làm chỗ tựa để dung hợp. Bất cứ dung hợp nào cũng 
phải có chỗ tựa, và nếu chỗ tựa đó là vay mượn thì văn hóa đó cũng chỉ 
là vay mượn mà thôi. Thiền đời Trần là nét văn hóa độc đáo Việt Nam 
chính là vì vậy: vì dung hợp mà có chỗ tựa. Thiền của Đạo Nguyên, của 
Nhật Bản, không như vậy.Thiền đời Trần là thiền Việt Nam, tư tưởng của 
Việt Nam. Việt Nam cần đoàn kết để chống xâm lăng trước mắt; ông vua là 
tư tưởng gia; dung hợp là quốc sách; thực tế ấy đi vào tư tưởng thiền 
của ông vua; thiền ấy kết tinh thực tiễn Việt Nam; ấy là thiền Việt Nam,
đặc biệt Việt Nam.
Đoàn kết tư tưởng lại còn được thực hiện
trong chính tư tưởng Phật giáo, giữa thiền và tịnh. Từ trong bản chất, 
thiền đòi hỏi một khả năng trí tuệ mà không phải ai cũng có, trong khi 
đại đa số quần chúng đến với Phật giáo nhiều hơn vì lòng tin, nhất là 
tin ở họa phúc và ở vãng sanh tịnh độ. Là thiền sư, Trần Thái Tông trọng
thiền. Nhưng là ông vua, ông thừa hiểu lòng dạ của quần chúng. Kết hợp 
cả hai thiền và tịnh mà không để mất tinh túy của thiền, đó là Phật giáo
của mọi giai tầng xã hội, từ bậc thượng trí đến bậc hạ trí mà Thái Tông
xem như căn bản. Ông dạy: "Bậc hạ trí thì miệng siêng niệm lời Phật, 
tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sanh về nước Phật". Rất thực tiễn,
ông giải thích: "Như muốn niệm Phật, tức lấy bậc hạ trí làm trước. Tại 
sao? Vì có chú ý vậy". Có khác gì ngồi thiền? Mà ngồi thiền có khác gì 
"nhất tâm bất loạn" trong kinh Di Đà? Tu như vậy, đúng như ông quả 
quyết: không phân biệt xuất gia tại gia, người tăng kẻ tục, nam hay nữ, 
ai tu cũng được. Phật giáo của quảng đại quần chúng được nâng cấp để kết
hợp làm một với Phật giáo của giới ưu tú, uyên bác. Sau này, vua Trần 
Nhân Tông, sơ tổ của thiền Trúc Lâm, vân du nhiều nơi trong nước để 
khuyên dân tu trì ngũ giới và làm mười điều thiện. Bởi vì Vua biết: tu 
thiền không phải ai cũng tu được, khó như "trúc hóa nên rồng" (6) .Ngược
lại, trì ngũ giới và hành thập thiện thì toàn dân ai cũng tu được cả, 
Phật giáo không bị kẹt trong một thế khu biệt chuyên môn nào. Đó là, nói
như Hòa thượng Thanh Từ, Phật giáo được quần chúng hóa, thiền tông được
quần chúng hóa, ta ở giữa bụi đời mà vẫn "cư trần lạc đạo"(7). Ông 
thiền sư ở Nhật thấy một mặt; ông vua thiền ở Việt Nam thấy cả hai. Ông 
thiền sư ở Nhật chỉ thấy trên cao; ông vua thiền Việt Nam thấy cả cao 
lẫn thấp. Cho nên Phật giáo đời Trần vừa rộng vừa sâu, rộng ở nền móng, 
sâu ở thượng đỉnh, dưới trên đều cùng một tư tưởng thông suốt. Muốn biết
hệ tư tưởng đó sâu rộng thế nào, thắt chặt đoàn kết đến đâu, chỉ cần 
đọc mấy câu của nho gia Lê Quát: "Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng
người sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ vương công, 
dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù đến hết tiền của 
cũng không sẻn tiếc… Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, 
cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không bắt 
phải thề mà giữ đúng" (8). Đố bất cứ thời nào và bất cứ nước nào, Nhà 
nước không ra lệnh mà dân vẫn tuân theo, và tự ý tuân theo, cho đến tận 
thôn cùng ngõ hẻm. Điều lạ lùng ấy, nhấn mạnh bao nhiêu vẫn thấy thần 
kỳ, đố luật pháp trên thế gian này chỗ nào có. Có sức mạnh nào bền chặt 
hơn để chống xâm lăng?
 2. Lãnh đạo tài ba. Đó là nói về yếu tố
thắng lợi thứ nhất: đoàn kết dân tộc. Yếu tố thắng lợi thứ hai là lãnh 
đạo tài ba. Tôi không nói ở đây tài ba lãnh đạo của các vua Trần về 
chính trị và quân sự. Tôi chỉ nói về lãnh đạo trong tư tưởng. Bất cứ ở 
đâu và bất cứ thời nào, không Nhà nước nào cai trị mà không dựa trên một
hệ ý thức. Vấn đề là hệ ý thức đó phục vụ ai và có được chấp nhận 
không. Nho thần Lê Quát đã trả lời câu hỏi này. Còn lại phải xét là: hệ 
tư tưởng đó đã ảnh hưởng lên thế nào trên tài ba lãnh đạo của các vua 
Trần của ta.
Về điểm này, tôi lại đem Nhật ra để so 
sánh. Giống ta, Nhật cũng bị Mông Cổ uy hiếp. Năm 1274, Hốt Tất Liệt huy
động chiến thuyền để xâm lăng; may cho Nhật, trời xấu, biển động, chưa 
đánh, tàu thuyền của Mông Cổ đã bị đắm. Biết là Mông Cổ sẽ không tha, 
Tướng Quân Tokimune bắt chước cha (Tokyiuri) rèn luyện tính khí của mình
và tính khí của tả hữu bằng cách học thiền thực sự. Trong thời gian đó,
nhiều thiền sư Trung Hoa đã qua lánh nạn tại Nhật khi nhà Tống bị Mông 
chinh phục, và chính Tokimune cũng có một thiền sư như vậy là thầy. Một 
chi tiết nhỏ cho vui: các ông thiền sư đó không biết nói tiếng Nhật nên 
phải nhờ thông dịch viên; khi ngồi thiền, thay vì quất thiền trượng vào 
lưng ông tướng, sư phụ quất nhẹ nhẹ vào lưng… thông dịch viên! Chuyện 
đáng nói hơn là tầng lớp võ sĩ đặc biệt thích thiền vì hợp với tính kỷ 
luật, tính thực tiễn, tính đơn giản, phi trí thức, chuộng hành động của 
họ. Đặc biệt hơn, có lẽ chỉ thấy ở đất Nhật, thiền lại còn đáp ứng được 
bổn phận trung thành đối với chủ, dù chết cũng không từ. Về phía các ông
thiền sư Trung Hoa, vì ngôn ngữ không thông, các ông giản dị hóa thiền 
để dễ thích hợp hơn nữa với giới võ biền mà đa số kém chữ nghĩa.
Năm 1281, Mông Cổ cất đại quân đánh 
Nhật, mười vạn binh Nhật đang cầm cự thì một trận thần phong nổi lên 
đánh đắm cả hạm đội Mông Cổ. Thiền đã đóng góp đến mức nào vào thắng 
trận, đó là chuyện có thể bàn luận, nhưng không ai có thể chối cãi lòng 
can đảm của Tokimune và quân đội của ông, phát xuất từ luyện tập kỷ luật
sắt đá dưới ảnh hưởng của thiền. Chính ông tướng này tuyên dương thiền 
bằng cách ra lệnh xây một ngôi chùa ở Kamakura để kỷ niệm thắng trận 
(9).
Bởi vậy, nói đến thiền ở Nhật là phải 
nói đến mối liên hệ với giai tầng võ sĩ. Ngôn ngữ thiền đặc biệt hợp với
tai họ: "không làm không ăn"; "mỗi ngày đều là ngày tốt"; "đạo là tâm 
hàng ngày"; sống là dạy"; "đi đứng nằm ngồi đều là đạo" … tất cả đều thể
hiện lý tưởng của họ. Thiền dạy họ nghe tiếng nói trong im lặng, tìm 
thấy hành động trong bất động, di chuyển trong bất di, khuấy động trong 
hòa bình, không sợ trước cái chết: tất cả đã tạo thành đạo của họ, võ sĩ
đạo. Các tác giả Nhật cho rằng chính mối liên hệ đó đã tạo thành sắc 
thái đặc biệt của thiền Nhật Bản, khác với thiền Trung Hoa, khác với 
thiền Ấn Độ (10).
Ta không có giai cấp võ sĩ, nhưng hãy 
tưởng tượng quân đội thiện chiến đời Trần, luôn luôn tự đặt trong tinh 
thần sẵn sàng chiến đấu vì bị đe dọa ba lần, mà lần nào cũng đại chiến, 
lại đặt dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh được luyện tập trong khí thế 
thiền, chẳng lẽ thiền chỉ có ảnh hưởng trên quân đội Nhật Bản hay sao? 
Chẳng lẽ quân đội ta không được thừa hưởng về tính kỷ luật? Về lòng can 
đảm, gan dạ? Cái gì khiến Trần Hưng Đạo tin chắc ở thắng trận ngay lúc 
đầu, khi thế giặc đang mạnh như chẻ tre, cái gì khiến ông quả quyết: 
"Nếu Bệ Hạ muốn hàng, hãy chặt đầu thần trước đã"? Cái gì làm ông quả 
quyết chắc nịch lần thứ hai, khi quân Nguyên lại chuẩn bị xâm lăng năm 
1287: "Năm nay giặc đến dễ đánh"? (11) Ông tin ở gan dạ của quân đội, 
ông tin ở khí thế của các tướng, ông tin ở ông, và trên hết, ông tin ở 
tài lãnh đạo. Tài của ông và tài của Vua. Bởi vì vua này là vua thiền. 
Các tác giả Nhật cho rằng trong thiền ngấm ngầm một sức mạnh vô song do 
sự tin tưởng rằng con người có đủ khả năng để tự mình thấy được tánh 
giác. Nơi người lãnh đạo, sức mạnh đó đem lại bình tỉnh, ung dung, khi 
chỉ huy ở giữa gian nguy vẫn bình yên, sáng suốt. Hãy đọc lại sử sách để
xem Trần Nhân Tông ung dung như thế nào giữa trận mạc, có khi bị giặc 
đuổi trên sông nước, vẫn bình yên lấy gươm khắc thơ lạc quan vào mạn 
thuyền. Vua như thế, tướng như thế, làm sao quân không như thế? Lấy một 
chọi mười là chuyện thường nghe trong chiến trận ngày xưa và cả ngày 
nay.
Hơn ai hết, ông vua thiền của chúng ta 
đã đưa vào trận mạc, vào chính sự, vào đời sống, vào hành động, tính 
không khiếp sợ của triết lý có/không trong Bát Nhã, kinh ruột của thiền 
tông. "Bồ tát nương trí tuệ bát nhã nên tâm không ngăn ngại; vì tâm 
không ngăn ngại nên không sợ hãi…" Có gì mà sợ hãi khi đã thâm nhập 
triết lý có/không, vượt lên trên cả không lẫn có?
Câu có câu không
Đau đáu lo sợ
Cắt đứt sắn bìm
Đó đây vui thích  (12)
Trong hành động, vượt lên trên có/không 
còn bao hàm một ý nghĩa tích cực cùng tột:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Cho nên khi Nhân Tông nói "không" thì 
ngài lên Yên Tử. Mà khi ngài nói "có" thì đích thân ngài lãnh đạo chống 
xâm lăng. Mà đã nói "có" thì tam thiên đại thiên thế giới đều nằm gọn 
trên một mũi kim, như thiền tông nói. Vua, tướng, quân, dân cùng nói 
"có" với nhau trong tiếng "có" phi thường của người lãnh đạo, có đoàn 
kết nào vững hơn, có lãnh đạo nào chắc hơn? Nhân Tông không cần cho xây 
chùa như Tokimune để kỷ niệm chiến thắng. Bởi vì, đơn giản quá:
Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Bụt ở nơi ngài. Lịch sử gọi ngài là vua 
Phật, là Phật Hoàng. Vua Phật lãnh đạo cuộc chiến chống xâm lăng, làm 
sao tách rời đâu là vua, đâu là Phật trong mỗi hành động của ngài? Ở 
Nhật có tinh thần samourai trong cuộc chiến, nhưng ở Việt Nam có cả một 
ông vua Phật và cả một hàng ngũ tướng lĩnh thấm nhuần thiền: cứ đem so 
sánh, ảnh hưởng của thiền ai nhiều hơn ai trong chiến thắng?
Cho nên, Phật giáo Việt Nam ở đời Trần 
là một hiện tượng kỳ lạ, độc đáo: không ở đâu khác, một ông vua vừa là 
tướng cầm quân, vừa là thiền tổ. Nơi ông vua ấy, kết tinh một tư tưởng, 
vừa là cơ sở lý thuyết, vừa là nền tảng giáo dục, lại vừa là thực tiễn 
hành động. Đó là một đạo Phật đặc biệt Việt Nam.
°°°
 Tôi đã trả lời hai câu hỏi nêu lên ở 
đầu bài này. Trả lời của tôi chỉ xác nhận lại những gì mà các vị trước 
đã viết, chỉ khác ở chỗ tôi nhìn vấn đề dưới một góc cạnh khác. Bây giờ,
trước khi kết thúc, tôi phải trả lời một chất vấn mà chắc có người sẽ 
đặt ra, cũng dưới khía cạnh so sánh: nếu nói thiền đời Trần dung hợp 
Khổng, Lão và Tịnh Độ, thì thiền ở Nhật sau Đạo Nguyên cũng vậy, có khác
gì nhau?
Quả thật vậy, sau Đạo Nguyên, thiền ở 
Nhật bắt buộc phải kết hợp với tịnh và đó cũng là đề tài lớn của các vị 
thiền sư lớn. Người kết hợp giỏi nhất để thích ứng hài hòa nhất với thời
đại mới của thế kỷ 18 là Bạch Ẩn Tuệ Hạc (Hakuin, 1685-1769). Thế 
nhưng, nhiều diễn tiến đã xảy ra khiến thiền ở Nhật đặc biệt ở điểm 
khác, không phải chỉ ở mối tương giao giữa thiền và tịnh.
Trước hết, ở Nhật không phải chỉ có hai 
tông thiền và tịnh, mà còn xuất hiện rất sớm, ngay từ thế kỷ 13, một 
tông thứ ba, phát triển không kém, là Nhật Liên tông mà ở ta không có. 
Chưa kể thần đạo, vẫn được xem như tôn giáo của dân Nhật.
Thứ hai, cũng rất sớm, thiền ở Nhật mất 
dần chất tôn giáo để phát triển thành chất văn hóa đi sâu vào đời sống 
của người Nhật. Chỉ sinh sau khi Đạo Nguyên mất 23 năm, thiền sư Muso 
(1275-1351) đã đưa thiền vào nghệ thuật vườn. Từ đó, thiền đầu thai vào 
kiếm đạo, cung đạo, trà đạo, hoa đạo, võ thuật đạo, thư pháp, thâm nhập 
vào tận nhà ốc, khuê phòng, vào mọi chi tiết của nghệ thuật, tạo thành 
một văn hóa đặc biệt, có bản sắc riêng mà thế giới đều biết. Ta thán 
phục bản sắc đó, nhưng chắc có lẽ cũng nên để ý một nhận xét của chính 
Muso - một nhận xét từ nội bộ: các sư đã trở thành "những cư sĩ xuống 
tóc", nhập cửa thiền để vẽ và để làm thơ! (13)
Còn thiền của ta thì sao? Thiền ở Nhật 
phát triển thành văn hóa thiền, còn ở ta đâu rồi cái chất trí tuệ vạm vỡ
của dòng thiền Yên Tử? Trong tình trạng Phật giáo phát triển bề rộng mà
thiếu chiều sâu hiện nay, những cố gắng để làm sống lại tinh túy Yên Tử
của Hòa thượng Thanh Từ phải được mọi Phật tử xem như cố gắng của chính
mình. Và không phải chỉ riêng Phật tử! Bất cứ người Việt Nm nào hãnh 
diện về lịch sử của nước mình đều muốn nước mình có một triều đại rực rỡ
như thế, nhất là trong tình trạng xâm lấn hiện nay. Triều đại rực rỡ đó
đã được xây dựng trên một văn hóa rực rỡ. Rực rỡ và độc lập.
Chú thích:
1. Masumi Shibata, Les maîtres du Zen au
Japon, Robert Laffont, 1974, tr. 41.
2. Như trên, tr. 47.
3. Thomas Hoover, L'Expérience Zen, Albin Michel, 1989, tr. 228.
4. Shibata, tr. 64-65.
5. Thích Thanh Từ, Khóa Hư Lục giảng giải, NXB Tổng Hợp, TPHCM, 2008, 
tr. 249.
6. Trong "Đắc thú lâm tuyền thành đạo". Xem Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần 
Nhân Tông, NWB Thành Phố HCM, 2000, tr. 260-261.
7. Thích Thanh Từ, trong Thiền học đời Trần (nhiều tác giả), NXB Tôn 
Giáo,2003, tr. 56.
8. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985, 
tr. 161. 
9. Thomas Hoover, sđd, tr.239. 
10. Junjiro Takakusu, Buddhism as philosophy of "thusness", 
Philosophy-East and West (ed. by Charles A. Moore), Freeport, New York, 
1970, tr. 106. 
11. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tr. 59.
12. Thích Thanh Từ, Tam tổ Trúc Lâm, NXB Tổng Hợp TPHCM, 2008, tr. 114.
13. Thomas Hoover, sđd., tr. 241.