CÂU ĐỐI CHÙA QUÁN SỨ
Ngày mồng 08/06/Quý Tỵ ( nhằm ngày 15/07/2013) có một thày chùa tới hỏi chùa
Quán Sứ có bao nhiêu đôi câu đối? Câu nào là hay nhất? Một câu hỏi thú vị làm
cho phải suy nghĩ, trả lời. Cũng chỉ một lẽ chưa nghiên cứu không biết đích xác
nên không trả lời.. Dẫu biết rằng một ngôi chùa là trụ sở của giáo hội Phật
giáo Việt Nam
thật quý giá. Những người đã, đang và sẽ hướng về Giáo Hội Phật giáo Việt Nam,
hướng về ngôi chùa thân thương Quán Sứ. Biết bao nhà nghiên cứu, nhà tu hành đã
viết lên những lời chân tình từ đáy lòng về Quán Sứ Già Lam, về câu đối, ý
nghĩa Phật pháp uyên thâm trong đó, mà mỗi khi ai đọc nghẫm nghĩ về triết lý
trong câu đối ta lại cảm thấy xúc động được an lạc. Mặc dù, may mắn năm 2013 –
PL2557 người viết được tòng tăng an cư tại Tùng Lâm Quán Sứ xin bớt chút thời
gian nhỏ nghiên cứu, đọc tài liệu chép, thu xếp những câu đối chùa Quán Sứ, ngõ
hầu làm tài liệu cho những ai gần xa có duyên hướng tới, tìm hiểu câu đối nơi
đây được thuận tiện tham khảo, ứng dụng cho công việc làm Phật sự dễ dàng. Có
thể nói câu đối nào, đại tự nào của chùa Quán Sứ đều ý nghĩa thiết thực. Ví dụ:
“Tranh thế sự, trăm năm bạc, tham- sân-
si sau mang nghiệp vào thân. Kịch trần duyên một giấc vàng giới – định – tuệ
sớm tu nhân thành Phật”. Dẫu biết rằng những câu đối chư hiền thánh tăng
làm ra vì mục đích nhắc nhở chúng ta nương vào giáo pháp Phật, tu hành, nhằm
giác ngộ- giải thoát, song độ chúng sinh giác ngộ-giải thoát theo. Để hiểu về
những câu đối chùa Quán Sứ thế nào ta có thể tìm hiểu như sau.
A. Lịch sử kiến
trúc Chùa Quán Sứ.
1. Lịch sử chùa Quán Sứ.
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế
kỷ 15. Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở
phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí,
vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm
Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt
Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng
Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi
chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời gian đã
xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.
Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu
Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa
sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa
được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm
thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu
đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật
giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa
Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản
thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
2. Kiến trúc chùa Quán Sứ
Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm
giữa là lầu chuông. Qua tam quan là một sân rộng lát gạch, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện cao,
hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các
pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ ba vị Tam thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ
tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp.
Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý Quốc Sư(tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức
Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.
Hai bên và đằng sau sân là các dãy
nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất
ít ngôi chùa ở Việt Nam
mà tên chùa cũng như nhiều câu
đối đều được viết bằng chữ
quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế
kỷ 20 và vì chùa đã trở thành
trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngôi Quốc
tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện Nghiên cứu Phật học
thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam)
cũng đặt ở đây.
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng
kiến nhiều hoạt động quan trọng của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ
chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo
thế giới. Chính nơi đây vào ngày 13 tháng
5 năm 1951 (mồng 8 tháng Tư năm Tân Mão)
lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội. Vừa
qua do nhà Tổ cũ xuống cấp không sử dụng được nên đã xây lại nhà tổ mới, trang
nghiêm hơn xưa.(2).
B. CÂU ĐỐI HOÀNH PHI CHÙA QUÁN SỨ
I. CÂU ĐỐI HOÀNH PHI NHÀ TỔ MỚI.
Câu
đối: TÙNG LÂM QUÁN SỨ NÊU CAO CÔNG TRẠNG BẬC TÔN SƯ
Hoành
phi: (phía trái): ĐUỐC TUỆ NÊU CAO
PHẬT HOÀNG ĐIỀU NGỰ DỰNG XÂY CỰC LẠC GIỮA TRỜI
NAM.
Hoành phi: TỔ ĐỨC LƯU PHƯƠNG
(Phải): TỲ NI LƯU CHI QUẢNG BÁ THIỀN TÔNG TRÊN
ĐẤT VIỆT
(Phía
phải): hoành phi: ĐÈN TỪ CHIẾU KHẮP
(Câu đối phía phải): PHẬT GIÁO VIỆT NAM THÀNH
KÍNH TRI ÂN NGÔI TỔ ĐỨC.
(Trái)
TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO THIỀN MÔN NỞ RỘ CÁC CAO TĂNG
(Giáp
trái) THĂNG LONG ĐẠI VIỆT PHÁT HUY MÔN PHÁI BĂC TRUNG NAM
( Giáp phải): HÀ NỘI THỦ ĐÔ DẤU ẤN TỔ THIỀN
TỊNH MẬT
(Phải): HỘ QUỐC DÂN AN GIÁO SỬ CÒN GHI BAO
THẠC ĐỨC.
Ảnh bài trí lịch Đại Tổ Sư tôn nghiêm tân Tổ đường
Hoành phi ngoài cửa: NHÀ THỜ TỔ
II.
CÂU ĐỐI TAM BẢO:
1. Câu đối Đức ông:
Hoành phi:聰明正直
Câu đối trong
Trái: 擁護精藍萬古存
Phải: 匡扶寳剎千年盛
Phiên âm:
Ủng hộ tinh lam vạn
cổ tồn
Khuông phù bảo sái
thiên niên thịnh.
Dịch nghĩa:
Ủng hộ thiền môn vạn thuở còn
Phù trợ cảnh chùa ngàn năm thịnh.
Câu đốingoài:
Trái: 除灾捍患著豊功
phải: 度世救民昭大德
Phiên âm:
Trừ tai tảo hoạn trược phong công
Độ thế cứu dân chiêu đại đức
Dịch
nghĩa:
Trừ
tai ương, dẹp hoạn nạn, mang danh phong công hầu.
Độ đời
cứu dân, được tôn xưng đức lớn.
2. Thờ
Thiền sư Nguyễn Minh Không
Hoành phi giữa: 神通六智
Câu đối dưới do cụ Phúc Tuệ Vũ Như Trác cung tiến,
ca ngợi Nguyễn Minh Không là người có công sang tận Trung Quốc lấy đồng về làm
tứ khí cho đất Nam Việt ta.
Trái:
四器成南越鎔寳千古竒觀
Phải:一囊括盡北京銅六通玄智
Phiên âm:
Tứ khí thành nam việt dung bảo thiên cổ kỳ
quan.
Nhất nang quát tận Bắc Kinh đồng lục thông
huyền trí.
Dịch
nghĩa:
Đúc
tứ khí thành đồ quốc bảo nghìn đời của nước Nam.
Một
túi vải thu hết đồng ở Bắc Kinh, là bậc lục thông huyền trí.
3. Câu đối cửa chùa:
Hoành phi:照破昏衢
Câu trái: 氣高星漢聰明德化合陰陽
Câu phải: 威肅風雲正直靈聲聞宇宙
Phiên âm:
Khí cao tinh
hán thông minh đức hóa hợp âm dương.
Uy túc phong
vân chính trực linh thanh văn vũ trụ.
Dịch nghĩa:
Chí khí cao tới
tận trời xanh, thông minh đạo đức hợp với âm dương.
Uy linh đầy trời
gió mây, chính trực linh thanh vang khắp vũ trụ.
Hoành phi: 慈仁廣大
Hoành phi giữa:
大雄寶殿
Câu đối trái
giữa: 福慧甚深究竟一心不亂慈尊
Câu đôi phải
giữa: 壽光無量莊嚴萬德洪名眞教體
Phiên
âm:
Phúc tuệ thậm thâm cứu kính nhất tâm bất
loạn từ tôn.
Thọ quang vô lượng trang nghiêm vạn đức hồng
danh chân giáo thể.
Dịch
nghĩa:
Phúc
tuệ sâu sắc là cứu cánh, nhất tâm bất loạn là đức Phật đại từ.
Thọ
quang vô lượng trang nghiêm ( chỉ Di đà Phật) cái tên hồng đức lớn là bậc giáo
chủ chân chính.
Hoành phi giữa trái phải: 寳珞莊嚴
Hoành phi trái: 以觀觀者
Câu đối trái phải: 照七大四科開合聞思修弟一義天
Câu đối trái: 覽五時八教紀綱經律論真三昧海
Phiên
âm:
Chiếu thất đại tứ khoa khai hợp văn tư tu đệ nhất nghĩa thiên.
Lãm ngũ thời bát giáo kỷ cương Kinh Luật
Luận chân tam muội hải.
Dịch
nghĩa:
Soi
7 đại 4 khoa khai hợp văn tư tu là giáo lý tuyệt đối của Phật
Thấu
suốt năm thời, bát giáo, Kinh Luật Luận là rường mối của biển chính định.
Câu đối cổng tam Quan trong nhìn ra ngoài:
Câu
đối thờ Địa tạng (vong linh):
Câu
đối Trái: ĐÀI BIA GHI NHỚ PHÚC DUYÊN CHUNG
Hoành phi: BỐN ƠN CÙNG ĐỀN ĐÁP
Câu đối phải: HƯƠNG HỎA ĐỀN BÙ CÔNG ĐỨC HẬU
Câu
đối hoành phi bia liệt sĩ:
Câu đối trái: HIẾU NGHĨA ĐỈNH ĐẦU THĂM THẲM
SOI
Hoành phi giữa: ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN LIỆT SĨ
Câu đối phải: CÔNG ÂN TẤC DẠ ĐINH NINH BÁO
Câu
đối ban địa tạng:
Đại tự:Nguyện Hoằng Thâm. Do huyện Thanh
Oai tỉnh Hà Đông làm vào năm Bảo Đại thứ 17, Nhâm Ngọ(tức tháng 2/1942) cung tiến.
Hai câu đối dưới đây là do Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha làm, Ban Hộ Niệm Phật giáo
Bắc Kỳ cung tiến, câu đối ca ngợi công đức lớn của Đức Địa Tạng Vương.
Câu đối trái: Xót địa ngục trầm luân khổ nạn thể lòng nhân nguyện độ cõi u minh.
Câu đối phải: Thương chúng sinh điên đảo cương thường, rạng
đức hiếu, làm gương đời ác trọc.
Hoành phi câu đối ban Bồ Tát Quan Âm Chuẩn Đề
Hoành phi:施無畏.
Dưới đây là câu đối bằng chữ Nôm nhưng do máy tính không có phông chữ Nôm
nên tác giả tạm viết bằng tiếng Việt như sau:
Câu đối trái:Bơi
chiếc thuyền Bát Nhã tiếp chúng sinh lên chín phẩm đài sen
Câu phải:vẩy giọt nước dương chi
dẹp lửa độc khắp ba nghìn cõi tục.
Đại tự giữa: 圓大覺
Câu đối chữ Hán
này Do đại sư Thái Hư – lãnh tụ phong trào chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, nhân
dịp sang thăm Quán Sứ tháng 5/1940 viết tặng Hội Phật giáo Bắc Kỳ:
Câu phải:法輪似地東西轉.
Câu trái:佛道逢源左右通.
Phiên âm:
Pháp luân tự địa
đông tây chuyển
Phật đạo phùng
nguyên tả hữu thông.
Dịch nghĩa:
Bách xe pháp giống như trái đất chuyển động từ Đông sang Tây
Đạo Phật trở về nguồn sẽ thông suốt cả bên trái cũng như bên phải.
Câu đối chữ Hán dưới
này do HT Thích Đức Nhuận làm năm 1973 khi chuẩn bị đón ông Xihanuc quốc vương
Campuchia sang Việt Nam
viếng thăm lễ Phật chùa Quán Sứ:
Câu phải:佛心本是眾生心明常合
Câu trái:教法不離世間法色卽是空.
Phiên âm:
Phật tâm bản thị
chúng sinh tâm minh thường hợp
Giáo pháp bất ly
thế gian giáo sắc tức thị không.
Dịch nghĩa:
Tâm Phật cũng là tâm chúng sinh chỉ khác ở chỗ sáng suốt và diệu dụng.
Truyền bá giáo pháp không tách rời thế gian, có tức là không.
Đại tự trong: 常光寂.
Câu đối chữ Hán này do HT Thích Doãn Hài ( tổ
Tế Cát) làm vào năm 1942 như sau:
Câu phải: 法界不思議耀古騰今於一毛端現寳王剎.
Câu trái: 世間真調御隨機逗教(tọa)微塵裡轉大法輪.
Dịch âm: Pháp giới bất tư nghị diệu cổ đằng kim ư nhất mao đoan hiện bảo vương
sái.
Thế gian chân Điều Ngự tùy cơ đậu giáo tọa vi trần lý chuyển đại pháp
luân.
Dịch nghĩa:
Giáo
pháp không thể nghĩ bàn, thấu xưa vượt nay, ở trên đầu một sợi lông mà hiện tòa
nhà vương báu.
Bậc chân Điều Ngự của thế gian, tùy cơ nghi giáo hóa, ngồi trong hạt bụi
mà chuyển bánh xe pháp lớn.
Câu đối chữ Hán này do cử nhân Dương Bá Trạc viết năm 1942, Ban hộ niệm Hội Phật giáo
Bắc Kỳ khắc như sau:
Phải: 乾坤拉子撒手儘 成空唯大慈大悲此性不生還不滅.
Trái:衣鉢真傳拈花只微笑捨了相了法上天無臭亦無聲.
Phiên âm:
Càn khôn lạp tử tán thủ
tận thành không duy đại từ đại bi thử tính bất sinh hoàn bất diệt.
Y bát chân truyền niêm
hoa chỉ vi tiếu xỉ liễu tướng liễu pháp thượng thiên vô xú diệc vô thanh.
Dịch nghĩa:
Hạt giống lành mà đem rải khắp đất
trời cũng thành không, chỉ có tính đại từ đại bi này là không sinh diệt.
Y bát chân truyền từ thiền ngữ đức Phật giơ cành hoa mà ngài Ca Diếp nhận
ý chỉ mỉm cười trước đại chúng, rõ thấu pháp tướng vốn không mùi không tiếng.
Câu đối này
Phải:法身清淨歷億劫不滅不生隨在即莊嚴( chữ農 + bộ chấm thủy ở trước
=nùng )珥有緣聐色相.
Trái: 道眼光明普三界弗障弗碍照臨皆樂利海河無量沐恩波.
Phiên âm:
Pháp thân thanh tịnh
lịch lịch ức kiếp bất diệt bất sinh tùy tại tức trang nghiêm nùng nhị hữu duyên
chiêu sắc tướng.
Đạo nhãn quang
minh phổ tam giới phất chướng phất ngại chiêu lâm giai lạc lợi hải hà vô lượng
mộc ân ba.
Dịch nghĩa:
Trải quan hàng nghìn hàng vạn kiếp không có sinh có diệt, ở chỗ
trang nghiêm chỗ nào cũng thấy sắc tướng của núi Nùng, sông Nhị.
Sáng suốt khắp cả ba cõi, chẳng có gì cản trở ngăn che, soi đến
nơi nào đều có lợi ích như cây cối được tưới nước.
Chúng Phật tử Tụng Kinh tạ pháp Mùa An Cư PL 2557 (ngày đầu 11/07/ Quý Tỵ)
Câu tiếp
Đại tự: 諸佛海會.
Phải:歷刧為明君爲良將爲孝子爲導師運用真如結界量善緣莊嚴福海.
Trái:現世棄珍寶棄委孥棄國城棄王位圓成大覺說恆沙妙法拔濟迷流.
Phiên âm:
Lịch kiếp vi minh quân
vi luwowg tướng vi hiếu tử vi đạo sư vận dụng chân như kết giới lượng thiện
duyên trang nghiêm phúc hải.
Hiện thế khí chân bảo khí
thê noa, khí quốc thành, khí vương vị viên thành đại giác thuyết hằng sa diệu
pháp bạt tế mê lưu.
Dịch nghĩa:
Đã từng làm ông vua sáng, làm tướng giỏi,làm người con có hiếu, làm
thày truyền đạo, vận dụng những giáo pháp tạo dựng những thiện duyên làm đẹp
cho đạo.
Ngay trong đời này bỏ hết cả của cải, cả quốc gia, cả vợ con, cả ngôi
vua chỉ tập trung vào học đạo, ngộ đạo và truyền đạo để giúp cho chúng sinh
thoát khỏi sinh tử luân hồi.
III. Câu đối cổng Tam Quan.
1. Câu đối đại tự trong chùa nhìn ra cổng Tam Quan
Đại
tự giữa trên: CỬA PHÚC TUỆ
Câu
đối trái: ĐƯỜNG BỆ ĐỘI GIỜI ĐẠP ĐẤT CHẤN CÕI NIẾT BÀN
Câu
đối phải:
HIÊN NGANG PHẤT GIÓ DẼ MÂY NÊU ĐƯỜNG CHÍNH GIÁC.
Câu đối tầng trung:
Câu trái: CỬA TỪ BI TIẾP DẪN
TÙY DUYÊN.
Câu phải: ĐƯỜNG GIÁC NGỘ ĐỀ
HUỀ TIẾN HÓA.
Đại tự dưới: TỪ BI HỶ XẢ
Câu đối trái: TRANH THẾ SỰ
TRĂM NĂM BẠC THAM SÂN SI SAU MANG NGHIỆP VÀO THÂN.
Câu đối phải: KỊCH TRẦN DUYÊN
MỘT GIẤC VÀNG GIỚI ĐỊNH TUỆ SỚM TU NHÂN THÀNH PHẬT.
Đại tự cổng phải: PHƯƠNG TIỆN
Câu đối trái: HOA BỐN MÙA CHÀO
ĐÓN PHẬT ĐÀI.
Câu đối phải: CÂY TRĂM THƯỚC
DỰNG NÊU THUYỀN CẢNH.
Đại tự cổng trái: TÙY DUYÊN.
Câu đối trái: CỬA SẮC KHÔNG
ĐÓN KHÁCH SIÊU PHƯƠNG.
Câu đối phải: ĐUỐC TRÍ TUỆ SOI
ĐƯỜNG BÁC ÁI.
Cổng Tam Quan trong nhìn ra ngoài chụp 17/08/2013
2. Phía
ngoài đường nhìn vào:
Đại tự trên: CHÙA QUÁN SƯ.
Câu trái: NIỆM KỆ HUYỀN KHÔNG BA
BẢY CÕI CHUYỂN CƠ GIỚI PHÙ QUỐC THÁI HỘ DÂN AN.
Câu phải: HỒI CHUÔNG CẢM ĐỘNG
CHÍN MƯỜI PHƯƠNG NAM MÔ PHẬT VƠI TRĂM SẦU VƠI BỂ KHỔ.
Câu đối tầng trung:
Câu phía trái: LẦU GIÓ ĐI VỀ
BÓNG SẮC KHÔNG.
Câu phía phải: CHUÔNG SƯỚNG
KÊU GỌI HỒN KIM CỔ.
Tầng hạ:
Câu đối trái giữa: HỘI PHẬT ĐỦ
MƯỜI PHƯƠNG BẢY CHÚNG ĐÓNG BÈ TẠP PHÚC THÂN SƠ VIỄN CẬN TỰ DO.
Câu đối giữa phải: CỬA THUYỀN CHUNG BỐN BỂ MỘT NHÀ MƯỢN CẢNH TU
THÂN QUÝ TIỆN HIỀN NGU BÌNH ĐẲNG.
Đại tự trái: NHÀ TĂNG
Câu đối trái: CHÙA TRUNG ƯƠNG
HỘI PHẬT MỞ MANG.
Câu đối phải: CẢNH QUÁN SỨ NHÀ
TĂNG TRUYỀN NỐI.
Đại tự phải: CỬA PHÁP.
Câu đối trái: TRI ÂM LUI TỚI KHÁCH ĐÔNG PHA.
Câu đối phải: ĐẠO ẤN NỐI NOI
THẦY PHẬT ẤN.
IV. CÂU
ĐỐI NHÀ GIẢNG VÀ NHÀ THỜ TỔ CŨ.
1. Nhà
giảng:
Khách tang hải ngẫm nguồn cơn
tỉnh mộng
Đất Lạc Hồng mở vận hội minh
tâm.
2. Nhà
thờ tổ
2.1. Phía
ngoài án thờ:
Hoành phi: Tổ ấn trùng quang.
Phải: Lễ Phật sám
hối tà tâm trừ ác nghiệp cơ cầu bồi cõi phúc.
Trái: Nghe pháp
hiểu minh chính nghĩa làm nhân duyên công đức đóng bè từ.
Câu
đối chữ Hán phiên âm:
Phải: Kế tổ truyền
tông quang hữu vĩnh
Trái: Liên đăng lục
diệm ánh vô biên
Dịch
nghĩa:
Kế tổ truyền tông hào quang muôn thuở
Nối đèn tiếp đuốc, sáng ánh vô biên.
Phía
trong án thờ:
Câu
đối chữ Hán phiên âm:
Phải: Nhất hoa hiện
thụy chi sa giới
Trái: Ngũ diệp lưu
phương biến đại thiên.
Dịch nghĩa:
Một hoa Tây Trúc hiện, điềm lành khắp cõi trần sa
Năm lá truyền Đông Độ, mùi hương lan tỏa ngàn nơi.
Ảnh Tam Bảo chùa Quán Sứ
Chú thích: Tài liệu tham khảo, để nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, câu đối chùa Quán Sứ, lời bình về câu đối chùa Quán Sứ... ta có thể xem những trang wed. (1).http://www.phattuvietnam.net/van-hoa/chua-viet-nam/4729-ch%C3%B9a-qu%C3%A1n-s%E1%BB%A9-ng%C3%B4i-danh-lam-c%E1%BB%95-t%E1%BB%B1-%E1%BB%9F-th%E1%BB%A7-%C4%91%C3%B4.html. (2).http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Qu%C3%A1n_S%E1%BB%A9.
(3). Nguyễn Đại Đồng, Chùa Quán Sứ, Nxb Tôn Giáo, 2007.