Tốt và xấu là những tiêu
chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có
đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi
ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được
coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức. Tuy nhiên, tốt và
xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành
vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn
của mỗi cá nhân.
Một người, lối sống và hành vi của
vị ấy, có khi đối với cộng đồng xã hội này, với cách nhìn của người này là tốt,
nhưng đối với cộng đồng khác, cách nhìn của người khác, có thể là xấu. Và một hành vi, có thể ở
thời điểm này là tốt, nhưng ở một thời điểm khác chưa hẳn được xem là tốt. Tốt
và xấu, như vậy là quy ước, tương đối, và tùy thuộc vào cách nhìn, quan niệm,
thái độ… Hẳn nhiên cũng có một số hành vi được xác định là tốt hay xấu có tính
chất phổ quát hơn, chẳng hạn như trộm cắp, nói dối hay giết người… Tuy nhiên,
trộm cắp, nói dối hay giết người đôi khi cũng được biện minh, xem như là một
hành vi cần thiết trong những tình huống cần thiết! Nói cách khác, những hành
vi này đôi khi vẫn không bị xem là phi đạo đức!
Trong Phật
giáo, có hai thuật ngữ có nghĩa gần với hai khái niệm tốt và xấu, đó là kusala
và akusala. Hai thuật ngữ này thường được chuyển dịch sang tiếng
Việt là thiện và bất thiện; và thường được dịch sang tiếng Anh là
"good" và "bad", hay "skilful" và
"unskilful". Trong kinh tạng Pāli, có hai thuật ngữ khác cũng có
nghĩa là thiện và bất thiện, đó là pāpa và puñña. Nhưng hai thuật
ngữ pāpa và puñña cũng được sử dụng trong Ấn giáo, và thường đề
cập đến việc tạo nghiệp lành (pāpa kamma) hay nghiệp ác (puñña kamma) trong
việc liên hệ đến tái sanh. Pāpa kamma thường được hiểu là một hành động
xấu ác đưa đến khổ đau và tái sanh vào các ác thú (cảnh giới khổ đau), trong
khi puñña kamma là việc làm thiện, đưa đến sự tái sanh về thiên giới
(được xem là cảnh giới có nhiều vui thú).
Nhưng thế nào
là thiện và thế nào là bất thiện theo quan điểm Phật giáo. Thiện, như được định
nghĩa trong kinh sách, là những suy nghĩ, lời nói và việc làm đem đến lợi ích
cho mình, cho người và cho những loài sống khác, và ngược lại là bất thiện.
Trong kinh Giáo giới La Hầu La ở rừng Ambala (Ambalatthikā Rāhulovāda
sutta, Trung bộ, kinh số 61), Đức Phật đã giảng giải về thiện và bất thiện như
sau:
"Thân
nghiệp này ta đang làm. Thân nghiệp này của ta đưa đến tự hại, có thể đưa đến
hại người, đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau
khổ, đem đến quả báo đau khổ…". Và, "Thân nghiệp này của ta đang làm.
Thân nghiệp này của ta không đưa đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không
đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả
báo an lạc". Cũng tương tự như vậy đối với miệng và ý. Qua những gì được
trình bày trong bản kinh này, ta có thể sắp xếp thiện và bất thiện theo những
tiêu chí sau:
1. Hành vi bất
thiện (akusala kamma):
a) Những hành
vi làm hại chính mình
b) Những hành
vi làm hại kẻ khác
c) Những hành
vi làm hại chính mình và kẻ khác
2. Hành vi thiện (kusala kamma):
a) Những hành vi làm lợi ích (hay
không làm hại) chính mình
b) Những hành vi làm lợi ích (hay
không làm hại) kẻ khác
c) Những hành vi làm lợi ích (hay
không làm hại) mình và kẻ khác.
Một người khi thân, khẩu và ý hành
động, nói năng và suy nghĩ thiện thì được gọi là đang tạo ra nghiệp thiện
(kusala/ pāpa kamma); và một người khi hành động, nói năng và suy nghĩ những
điều xấu ác thì đang tạo ra nghiệp ác (akusala/ puñña kamma). Và theo đây,
thiện và bất thiện cũng được nhìn từ kết quả của nó. Tức là hành vi thiện thì
sẽ đưa đến sự an lạc, hạnh phúc; và hành vi ác sẽ đưa đến sự đau khổ, bất an.
Nói cách khác, nếu ta có được sự an lạc, hạnh phúc, đó là do ta đã tạo ra những
nghiệp thiện, và ngược lại. Và nếu nhìn từ góc độ này, ta có thể nhận biết là
ta có đạo đức hay không trong quá khứ qua những gì mà ta đang “gặt” ở thời điểm
hiện tại. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong kinh Trung bộ có liên hệ đến
khía cạnh này:
“Và này Punna, thế nào là nghiệp
đen đưa đến quả báo đen? Ở đây, này Punna có người tạo ra thân hành có tổn hại,
tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại. Sau khi tạo ra thân hành
có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế
giới có tổn hại.” Và, “Này Punna, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo
trắng? Ở đây, này Punna, có người làm thân hành không có tổn hại, làm khẩu hành
không có tổn hại, làm ý hành không có tổn hại. Sau khi làm thân hành không có
tổn hại, khẩu hành không có tổn hại, ý hành không có tổn hại, vị này được sanh
vào thế giới không có tổn hại” (Kinh Hạnh con chó/ Kukkuravatika sutta,
kinh số 57).
Ở nơi khác, thiện và bất thiện được
căn cứ ở trên việc đoạn trừ tham-sân-si. Trong Trường bộ kinh, Đức Phật
nói rằng thiện là không tham, không sân và không si mê; và ngược lại, bất thiện
là tham, sân và si mê (Xem kinh Sangīti sutta/ Phúng tụng, số 33). Như
vậy, bất cứ hành vi nào, nếu nó được thực hiện bằng tâm không tham-sân-si thì
được coi là thiện, và ngược lại.
Trong kinh Trung bộ, thiện
và bất thiện cũng được định nghĩa tương tự: “Chư
hiền, thế nào là bất thiện, thế nào là căn bổn bất thiện, thế nào là thiện, thế
nào là căn bổn thiện? Chư hiền, sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất
thiện, tà hạnh trong các dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói hai lưỡi
là bất thiện, ác khẩu là bất thiện, nói phù phiếm là bất thiện, tham dục là bất
thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Chư
hiền, như vậy gọi là bất thiện… Và này
chư hiền, thế nào là thiện? Từ bỏ sát sanh là thiện, từ bỏ lấy của không cho là
thiện, từ bỏ tà hạnh trong các dục là thiện, từ bỏ nói láo là thiện, từ bỏ nói
hai lưỡi là thiện, từ bỏ ác khẩu là thiện, từ bỏ nói phù phiếm là thiện, không
tham dục là thiện, không sân là thiện, chánh tri kiến là thiện. Chư hiền, như vậy gọi là thiện” (kinh Chánh tri kiến/
Sammāditthi sutta, kinh số 9).
Căn cứ vào đoạn kinh trên ta có thể
xếp những nghiệp thiện và bất thiện theo những nhóm sau: Những nghiệp bất thiện
(nghiệp ác) bao gồm: a) Về thân: sát sanh, trộm cắp, dâm dật. b) Về khẩu: nói
dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. c) Về ý: tham lam, giận
hờn, si mê. Những nghiệp thiện được chia ra như sau: a) Về thân: không sát
sanh, không trộm cắp, không dâm dật. b) Về khẩu: không nói dối, không nói thêu
dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác. c) Về ý: không tham lam,
không giận hờn, không si mê. Như vậy qua bài kinh này, cũng như được giảng giải
rõ ràng và chi tiết hơn ở trong kinh Thập thiện nghiệp đạo (Taisho
Tripitaka Vol. 15, No. 600), ta có mười tiêu chí để nhận biết những gì là thiện
và những gì là bất thiện.
Như vậy, bất cứ lời nói, hành vi
hay suy nghĩ nào phát xuất từ tham-sân-si đều được coi là bất thiện, và ngược
lại. Vì tam độc này được xem là gốc rễ từ đó phát xuất những hành vi bất thiện,
nên chúng được xem là nền tảng của điều xấu ác, hay nói cách khác là nền tảng
(căn bổn) của đời sống phi đạo đức: “Chư hiền,
thế nào là căn bổn bất thiện? Tham là căn bổn bất thiện, sân là căn bổn bất thiện, si là căn bổn bất
thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn bất thiện…. Chư hiền, thế nào là căn
bổn thiện? Không tham là căn bổn thiện, không sân là căn bổn thiện, không si là
căn bổn thiện. Chư hiền, như vậy gọi là căn bổn thiện” (Trung bộ kinh,
kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi sutta, kinh số 9).
Tương tự như
vậy, kinh Tăng chi bộ cũng xem gốc rễ (căn bản) của bất thiện là
tham-sân-si: "Này các Tỳ-kheo, có ba căn bản bất thiện. Thế nào là ba?
Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất
thiện". (Tăng chi bộ, 3: 69. Kinh Phật thuyết như vậy, chương Ba
pháp, phẩm 1).
Trong kinh
tạng, đôi khi cũng đề cập một cách cụ thể hơn về những hành vi gì được coi là
thiện hay bất thiện. Những việc làm như bố thí, trì giới, tu tập (bhāvanā),
nhẫn nhục… thì được coi là thiện. Trong khi bất thiện là không thực hiện những
điều này. Nói cách khác, một người xan tham, không tuân thủ giới luật và không
tu tập… thì được coi là bất thiện. Và, những hành vi được coi tạo nên nghiệp ác
nhất (phi đạo đức nhất) là: giết cha, giết mẹ, giết một vị A-la-hán, làm thương
tổn Đức Phật, và phá sự hòa hợp của Tăng đoàn.
Trong Phật
giáo, thiện và bất thiện có liên hệ mật thiết đến những trạng thái tâm lý. Nói
cách khác, thiện hay bất thiện không chỉ thể hiện qua việc làm bên ngoài, không
chỉ liên quan đến ý nghĩ, lời nói và hành vi, mà còn được nhìn từ những trạng
thái tâm lý. Ví dụ, sự chán nản, thất vọng, buồn phiền,… có thể được xem là bất
thiện; trong khi sự tinh tấn, hoan hỷ, an vui tự tại… lại được xem là thiện.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng, các trạng thái tâm lý này có những
ảnh hưởng nhất định đến suy nghĩ, lời nói và hành vi. Những trạng thái tâm lý
tích cực, có thể đưa đến những lời nói hay hành vi tích cực; và ngược lại,
những trạng thái tâm lý tiêu cực, có thể đưa đến những hành vi và lời nói tiêu
cực.
Duy thức học
Phật giáo (bộ môn Tâm lý học của Phật giáo Đại thừa) đã phân chia những trạng
thái tâm lý thiện và bất thiện thành hai nhóm như sau: 1. Những (trạng thái)
tâm thiện bao gồm: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an,
bất phóng dật, hành xả, và bất hại. 2. Những (trạng thái) tâm bất thiện bao
gồm: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Ác kiến lại chia thành năm: thân kiến,
biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Bên cạnh, các trạng thái tâm gây
nên phiền não (tùy phiền não) cũng được coi là nhưng trạng thái tâm bất thiện,
gồm có: a) Tiểu tùy, có 10: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuồng, siễm, hại,
kiêu. b) Trung tùy, có 2: vô tàm, vô quý. c) Đại tùy, có 8: trạo cử, hôn trầm,
bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Thiện, bất thiện và giải thoát
Thiện và bất
thiện không chỉ là tác nhân đưa đến việc tái sanh vào những cảnh giới an lành
hay khổ đau, mà cũng là cơ sở của việc giải thoát hay đọa lạc. Nếu như việc
đoạn trừ tham-sân-si được coi là tiêu chí để nhận biết một người có được sự
giải thoát hay không, thì đích sau cùng của thiện là sự giải thoát. Ta có thể
tìm thấy điều này qua đoạn kinh sau:
Với Tỳ-kheo
hay Tỳ-kheo-ni nào, này các Tỳ-kheo, tham chưa đoạn tận, sân chưa đoạn tận, si
chưa đoạn tận; này các Tỳ-kheo, vị ấy được gọi là vị chưa vượt qua đại dương,
với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài La-sát.
Này các Tỳ-kheo, với Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào, tham đã đoạn tận, sân đã đoạn
tận, si đã đoạn tận; này các Tỳ-kheo, vị ấy được gọi là: "Ðã vượt qua đại
dương, với sóng biển, với sóng ngầm, với nước xoáy, với cá mập, với các loài
La-sát, đã vượt qua bờ kia, là vị Bà-la-môn đã đứng trên đất liền" (Kinh Phật
thuyết như vậy, chương Ba, phẩm II).
Và một đoạn
khác:
"Bị tham
ái làm say đắm, này Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ
điều hại mình, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến
hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy,
này Bà-la-môn, Niết-bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà
thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác
hiểu". Tương tự như vậy đối với sân và si (Tăng chi bộ kinh: 3.55).
Đạo đức Phật
giáo (ở phạm vi giới luật) thường được nghĩ là phương tiện để đưa đến định và
sau đó là tuệ. Nhưng ở đây chúng ta có thể thấy, nếu hành vi thiện được coi là
hành vi có đạo đức, thì đạo đức trong ý nghĩa vắng mặt tham-sân-si, chính nó đã
là mục đích cuối cùng.
Kết luận
Từ
những thảo luận sơ lược ở trên, ta thấy thiện và bất thiện trong Phật giáo có
nghĩa rộng hơn những quy ước đạo đức ở trong xã hội như đúng và sai, tốt và
xấu. Thiện không những là những quy tắc đạo đức quy ước cần phải thực hiện, hay
những điều tốt cần nên làm để giúp người hay các loài sống khác (hay không thực
hiện những hành vi làm tổn hại con người, xã hội và các loài sống khác), mà
thiện cũng còn là phương cách tu tập và đào luyện tâm. Và nếu gốc rễ của thiện,
như được đề cập ở trên, là không tham, không sân và không si, thì thiện không
những giúp người ta hoàn thiện nhân cách và phẩm hạnh ở trong đời sống xã hội,
mà còn là con đường đưa hành giả đến sự giải thoát. Do đó, tuệ tri về thiện và
bất thiện, cũng như tuệ tri về gốc rễ của thiện và bất thiện, là điều quan
trọng trong lộ trình tu đạo, như đã được đề cập trong kinh tạng: "Chư
hiền, khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bổn bất thiện,
tuệ tri được thiện và tuệ tri được căn bổn thiện, chư hiền, khi ấy Thánh đệ tử
có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành
tựu diệu pháp này" (Trung bộ kinh, kinh Chánh tri kiến/ Sammāditthi
sutta, kinh số 9).
Nguyên Hiệp
(Nguyệt San Giác Ngộ)