Theo Kinh-điển Hán-văn, hôm nay rằm tháng 2 âm-lịch
là ngày Phật nhập Niết-bàn.
Cùng một việc dứt thở, bỏ xác, tại sao
ở người thế-gian, gọi là chết, còn ở Phật lại gọi là “nhập Niết-bàn”? Vậy sự
sai khác giữa đôi đàng như thế nào và Niết-bàn có nghĩa là gì? Đó
là hai điểm mà tôi xin đề-nghị cùng chư quý đạo-hữu tìm hiểu, xuyên qua các
sách vở đã được viết ra rất nhiều về vấn-đề này.
Trước tiên, chúng ta hãy nghe Kinh Bại-bát
Niết-bàn nói về giờ phút trước khi và trong khi Phật nhập Niết-bàn.
Như Lai liền nói
bài kệ:
“Các hành vô-thường
Là pháp sinh-diệt.
Diệt sinh-diệt rồi,
Tịch-diệt là vui”.
Đại ý bài kệ nói rằng
sự-vật không thường còn, vì đó là những thứ hễ có sinh ra là phải có diệt đi,
nghĩa là có sinh là có tử, có đầu là có đuôi, có khởi đoan là có chấm dứt. Nếu
diệt được cái “sinh diệt” ấy tức là nếu chấm dứt được sự “sinh tử”, thì được
cái vui gọi là “tịch-diệt”. Sinh-tử đây là sinh-tử của thân, là vật sinh-diệt.
Vì vậy Như-Lai nói tiếp:
“Các
vị nên biết, hết thảy mọi hành-tướng đều
là vô-thường. Thân tôi nay, tuy là thể kim-cương, vẫn không khỏi lẽ vô-thường
biến thiên. Trong nẻo sinh-tử rất đáng
sợ-hãi, các vị nên siêng làm hạnh tinh-tấn, cầu mau ra khỏi hố lữa sinh-tử này,
đó là lời dạy cuối
cùng của tôi. Thời nhập Niết-bàn của tôi đã
đến”.
PHẨM
PHÓ-CHÚC
“Ngay
khi ấy Như-Lai vào Sơ-thiền; ra Sơ-thiền, vào Nhị-thiền; ra Nhị-thiền, vào Tam-thiền;
ra Tam-thiền vào Tứ-thiền; ra Tứ-thiền vào Không-xứ; ra Không-xứ, vào Thức-xứ;
ra Thức-xứ, vào Vô-sở-hữu-xứ; ra Vô-sở-hữu-xứ, vào Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ;
ra Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ vào Diệt-tận-định.
Lúc
đó, A-Nan thấy
Như-Lai im bặt không nói, thân thể, chi-tiết không dao-động, liền sa lệ nói
rằng: “Thế-Tôn nay đã nhập Niết-bàn rồi!”.
“Bấy
giờ A-nâu-lâu-đà (Anurudha) bảo
A-Nan: “Ngay bây-giờ Như-Lai chưa nhập Niết-bàn đâu!
Sở-dĩ Ngài im-bặt, thân không dao-động,
chính vì Ngài nhập Diệt-tận-định.
Đức Thế-Tôn ra Diệt-tận-định, lại trở vào
Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ, và lần-lượt cho đến
vào Sơ-thiền; ra Nhị-thiền, vào Tam-thiền; ra Tam-thiền, vào Tứ-thiền. Và, ngay
ở nơi ấy, Ngài nhập Niết-bàn”.
PHẨM NHẬP NIẾT-BÀN
Hai đoạn kinh trên đã chỉ cho chúng ta
thấy Phật không có “chết” cái chết của
phàm-phu, mà Ngài đã “nhập định”. Không phải một nhập-định
hữu hạn mà vô cùng vĩnh-viễn, vì Ngài đã
tận “diệt phiền-não, sinh-tử, đã lìa mọi
tướng, vào chỗ vắng-lặng vô cùng vô tận”. Đây
là nghĩa đại-khái của danh-từ “nhập Niết-bàn”.
Bây
giờ chúng ta hãy đi sâu vào vấn-đề để hiểu rõ thêm hơn.
Điểm
cần ghi nhớ là đừng nghe nói Phật
“nhập Niết-bàn”, rồi tưởng Phật đã về một cõi nào đó, hưởng phước đời đời, như
Thiên-đường của nhiều
Tôn-giáo khác. Cũng đừng hiểu rằng Phật đã tiêu-tan trong Hư-vô (Néant), khi đọc
kinh-điển thấy nói Phật “tịch-diệt” hay “viên-tịch”. Vậy “nhập Niết-bàn” là đi vào đâu?
Niết-bàn
là phiên-âm chữ Nirvâna của Ấn-Độ,
Tàu dịch nghĩa là Diệt, Người Pháp dịch
là Extinction với cái nghĩa: Thổi
trên ngọn đèn để tắt. Diệt ngọn lửa mà một
hơi thở làm mất tích, đó gọi là Niết-bàn.
Nhưng ngọn lửa mà một hơi thở, hơi thở của chúng ta, làm tắt, ngọn lửa
đó là gì?
Một
ẩn-sĩ Bà-la-môn hỏi Ngài Xá-lợi-Phất (Sariputra), một đại-đệ-tử của Phật:
–
Niết-bàn, Niết-bàn, này ông bạn Xá-lợi-Phất, đó
là gì?
–
Sự tiêu-diệt lòng tham-muốn, sự tiêu-diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu-diệt
lòng si-mê sai-lạc, đó thưa ông bạn, là
cái mà người ta gọi là Niết-bàn.
SAMYUTTA NIKAYA
Vậy
Niết-bàn chỉ lả một danh-từ chỉ cái kết quả cứu cánh của sự tu-hành theo
Phật-giáo mà mục-đích cứu-cánh là diệt
tam-độc: tham, sân, si.
Để rõ hơn, chúng ta
hãy tiếp nghe lời Phật dạy:
“Người
tu nào đã từ bỏ được thú vui và
tham-muốn, đã đầy đủ trí-huệ, là ngay ở
cõi đời đây, đã đạt đến sự giải-thoát
sinh-tử, sự tịch-tĩnh, đã đạt đến Niết-bàn, nơi an
dưỡng thường-tồn, vĩnh-cửu.
Kẻ
nào đã ra khỏi những con
đường mòn gạt-gẫm của
Luân-hồi, kẻ nào đã lội qua bên kia
sông và đã tới bờ, giữ tâm
chánh-định, không quá thất,
không nghi hoặc, kẻ nào đã giải-thoát mọi sự-vật
thế-gian và đạt đến Niết-bàn, kẻ ấy
là một tu-sĩ chân-thực”.
SUTTASANGAHA
Niết-bàn
là nơi an-dưỡng thường-tồn, vĩnh-cửu! Vậy sao bảo Niết-bàn không phải là một
cõi? Xin thưa, những chữ “nơi an-dưỡng” dùng ở đây là một lối nói “tạm” để
ám-chỉ cái “thường”, đối lại với cái
“vô-thường” là cảnh thế-gian. Do đây
trong kinh Dvyatânupassanâ, Phật dạy:
“Cái
không tiêu không diệt là Niết-bàn, hạng người cao-cả quan-niệm nó như thật có;
nhờ thấu-triệt được sự thật này, họ
được giải-thoát khỏi
mọi thèm khát tham muốn và được hoàn-toàn an-lạc”.
Vậy Niết-bàn chỉ cái “Thường”, mà còn
chỉ cái “An-lạc” của những tâm-hồn giải-thoát.
Có giải-thoát, có diệt dục, mới có Niết-bàn:
“Trong kẻ từ-bi bố-thí, cây đạo-đức sẽ mọc lên.
Trong kẻ tự chế-ngự được, không một cơn
giận hờn nào có thể nổi lên.
Người chân-chính gạt bỏ mọi điều ác.
Bởi sự tận diệt tham, sân, si, ngươi sẽ đạt đến Niết-bàn”.
MAHÂ-PARINIBBANA
SUTTA
Thế
thì Niết-bàn phải là một tâm-trạng không?
Cũng không. Vấn-đề thật là rắc-rối và khó hiểu. Chính Phật cũng đã nhìn nhận
như thế trong Kinh Udâna như sau:
“Này
các đệ-tử, có một quốc-độ mà ở đấy không có đất, không có nước,
không có nóng, không có gió(1); không có không-gian vô tận, không có thức vô biên, cũng không phải
hoàn-toàn không có gì cả, cũng không có sự cảm-thọ hay không cảm-thọ, cũng
không có thế-giới này, thế-giới kia, mà vừa là mặt trời, vừa là mặt trăng.
Cái
ấy, này các đệ-tử, ta không gọi
là khứ, là lai, là trụ, là sinh, là tử, nó không nhân, không thành, không diệt.
Đó là chỗ chấm dứt của
sự khổ.
Khó
mà thực-nghiệm được cái “thể”;
chân-lý không phải dễ nhiếp-thọ, nắm lấy; kẻ biết thật biết mới làm chủ được lòng ham-muốn
và kẻ nào thấy thật thấy mới thấy vạn-vật không có một giá-trị chân-thật nào cả”.
*
*
*
Từ trước đến đây, chúng ta thấy Niết-bàn
không phải một cõi, một cảnh, một tâm-trạng, cũng không phải là cái không ngơ
(hư-vô). Vậy Niết-bàn có hay không có?
.
Trong Kinh Na-Tiên Tỳ-kheo, vua
Milinda đã đặt ra câu hỏi ấy.
Vả đây là câu trả lời của Ngài Na-Tiên:
“–
Tâu Hoàng-thượng, có Niết-bàn, và cái có ấy, có thể lấy trí mà nhận. Còn hễ là đệ-tử Phật mà giữ được tâm thanh tịnh
và chánh-trực, thoát khỏi các nghiệp-chướng, thoát khỏi được các tham muốn
thấp hèn, thì thấy được Niết-bàn.
–
Xin thí-dụ, nhà Vua nói.
–
Hoàng-thượng biết có một cái gọi là gió. Vậy xin Hoàng-thượng chỉ cho tôi coi
gió màu sắc gì, hình dáng ra sao, nó dày hay mỏng, dài hay vắn?
–
Không thể chỉ được như thế, vì làm
sao nắm bắt nó được, nhưng dầu vậy,
gió là cái gì có.
–
Cũng thế, tâu Hoàng-thượng, Niết-bàn là cái gì có mà không thể chỉ cho thiên-hạ
thấy hình sắc của nó.
Cái lý Niết-bàn, đầy an-lạc, rất nhiệm-mầu,
có. Và người nào ở ăn chân-chánh, thấu
hiểu tánh của các tướng, tuân hành giáo-pháp của chư Phật, người ấy ắt thực chứng
Niết-bàn, cũng như một đứa trẻ học nghề, nhờ
thầy chỉ dẫn, mà rồi tự tạo, tự biến thành một thợ giỏi trong nghề.
–
Làm sao biết được Niết-bàn, nhà
Vua hỏi.
– Nhờ sự thoát khỏi
phiền-não, nghiệp-chướng, nhờ sự an-ổn, an-lạc thanh-tịnh”.
Rồi Ngài Na-Tiên cho thêm vài thí-dụ.
.
–
Người té vào đống lửa ngùn-ngụt, cố gắng vượt ra khỏi và lên được chỗ mát-mẻ.
Người ấy cảm thấy sung-sướng vô cùng. Cũng thế, người thoát khỏi lửa của tham,
sân, si sẽ hưởng cái sung-sướng Niết-bàn.
–
Người té vào huyệt tử-thi hôi-thối, nếu cố-gắng ra khỏi được và lên chỗ không
có tử-thi, sẽ cảm thấy sung sướng vô ngằn. Cũng thế, ai ra khỏi hầm tử-thi của
những tâm-niệm bất thiện, người ấy sẽ hưởng cái sung-sướng Niết-bàn.
–
Người té vào hầm phẩn dơ mà cố-gắng ra khỏi và lên chỗ sạch, sẽ cảm thấy
sung-sướng. Ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh, già, bệnh, chết, người ấy sẽ hưởng
cái sung-sướng Niết-bàn.
Vậy
tìm Niết-bàn ở đâu?
“Ở
trong đạo-đức. Nếu sống luôn
trong đạo-đức, trong định-tâm, thì dầu ở đông ở tây, ở nam ở
bắc, ở dưới Long-cung hay ở trên Thiên-cung, bất luận chỗ nào, người sống trong
chánh-chân như thế tìm được Niết-bàn”.
*
*
*
Cứ như trên thì Niết-bàn là cái gì mà
ngay đây mỗi chúng ta có thể đạt được, miễn thực hiện những điều kiện Phật dạy?
Vâng, quả đúng như thế. Về điểm này, Bà Alexandra Daviđ, trong sách “Le
Modernisme Boudhiste et le Bouddhisme du
Bouddha” có viết :
“Niết-bàn
là mục-đích, là hải-cảng
trú-ẩn, là sự an nghỉ miên viễn. Hải-cảng ấy, bậc A-la-hán đã đạt đến rồi; ngay lúc
còn sống, La-hán đã vượt khỏi ngưỡngcửa
cái thế giới bên kia, rất cách biệt với những tri kiến và quan-niệm của chúng
ta, và tuy chúng ta thấy Ngài cũng vẫn còn đi,
đứng, nằm, ngồi y
như chúng ta và giữa đám chúng ta ,
La-hán không còn là người của thế-giới chúng ta, là thế-giới của vọng-tưởng và
vô-thường. Ngài sống trong Bất-biến, trong Bất-sinh, trong Chân-thường. Ngài là
cái Bất-biến, Bất-sinh, Chân-thường”.
Tu-hành mà đạt đến kết-quả này gọi là
“đắc Niết-bàn tại thế”
hay “đắc hữu dư Niết-bàn”
hay nữa “đắc hữu dư-y Niết-bàn”.
Kinh Bảo-Quật nói :
“Kim-cang
tâm đoạn biến-dịch nhân
tận, nhi biến-dịch quả du-tồn, hữu dư lụy, cố viết hữu dư”.
Cái nhân biến-dịch đã bị tâm Kim-cang
(trí huệ) chặt đứt, nhưng cái quả
biến dịch vẫn còn, nên còn phải chịu một phần nợ-nần, bó buộc nào, vì vậy nên gọi
là còn dư, chưa đứt. Nói một cách
khác, hữu-dư Niết-bàn là kết-quả giải-thoát nội tâm hoàn-toàn, nhưng về mặt
thân xác thì sự giải-thoát chưa được hoàn-toàn hẳn, vì còn thân là còn nợ-nần với
cái sống ăn, sống mặc, với già, với bệnh, với chết.
Cao
hơn “Hữu-dư Niết bàn” có “Vô-dư Niết-bàn” hay “Vô-dư-y Niết-bàn”, là “Vô sanh-tử chi nhân, diệc vô quả dã”. Đó
là kết-quả mà Phật đã đạt đến vào một đêm rằm tháng hai, cách nay trên 2500
năm. Cái nhân sanh-tử trong tâm đã chết mất từ lâu, rồi nay cái quả sanh-tử của
nhân tiền kiếp (thân) cũng bỏ lại và sẽ tan-rã, thì còn nợ-nần chỗ nào mà khòng
bảo là “Vô-dư”. Tóm lại, “Vô-dư Niết-bàn” là Niết-bàn đạt đến khi
bỏ xác, là Giải-thoát hoàn-toàn.
Nhưng
dầu hoàn-toàn (Vô-dư) hay chưa hoàn-toàn (Hữu-dư), Niết-bàn chỉ có một thể,
cũng như đường chỉ có một vị là ngọt, dầu đó là đường tán hay đường phèn. Để
chỉ cái vị duy nhất ấy kinh-điển bảo Niết-bàn có bốn đức (hay bốn đặc-điểm:
propriétés essentielles) là: Thường, Lạc,
Ngã, Tịnh. Nói cho đúng, chính 4 cái đó là Niết-bàn và ai thực chứng được,
ai thưởng thức được thì gọi là “đắc Niết-bàn”.
Bốn
đức này , chúng ta
đã nghe thấy trong những đoạn kinh đã dẫn ở phía trước.
Sống
trong, vì và bởi cảnh thế-gian là sống trong biến-dịch, vô-thường, cảnh-giới của
vật-chất và tình-cảm thấp-thỏi. Bỏ được lối sống này mà sống được đời sống nội
tâm không biến-dịch, là sống trong cái ngược với vô-thường, tức là sống trong
cái Thường (Eternel). Sống trong Thường là bất
biến, nhưng không phải không tùy
duyên. Tùy duyên mà vẫn bất biến. Thí-dụ: đến giờ phải ăn là ăn
(tùy duyên), nhưng không để cái ăn làm xao-động lòng mình (bất biến). Trước cảnh
đau-khổ của người khác, lòng không bị kích-thích như thế tình (bất biến), nhưng
hết sức giúp-đỡ (tùy duyên). Được
như thế gọi là Thường.
Tâm
không bồn-chồn, lo muốn nóng-nảy, gọi là an. Có an là có vui (Lạc), cái vui
khác thường, vì không cần có mồi mới sanh vui. Người muốn tiền mà không được tiền,
không vui, như cá muốn ăn mà không gặp mồi, không sướng. Vậy cái vui sướng của
thế-nhân là cái vui sướng cảm thấy khi lòng ham muốn , thèm khát, được
thỏa-mãn. Cái Lạc của người giải-thoát
là cái vui hồn-nhiên, phát xuất từ chỗ không tham, không cầu gì cả. Đó
là cái mội nước tự nó phun lên, mà không cần có máy bơm. Vậy là một cái vui bất
chấp ngoại cảnh, hoàn toàn giải-thoát mọi kích-thích, cái vui “bí-mật” mỉm cười
của Phật. Được như thế gọi là Lạc.
Thế-nhân
ai là người không sống cho ta và vì ta, cho và vì cái ta nhỏ mọn (tiểu-ngã)? Đó
là lối sống ích-kỷ. Bỏ lối sóng
đó mà sống vì người,
vì tất cả, là sống cho cái Ta to (Đại-ngã).
Gọi Đại-ngã vì là toàn
thể những cái “ta” nhỏ góp lại. Vậy sống vị-tha là sống cho Đại-ngã,
hay Ngã, sống như cái sống
của nước đại-dương. không sống chật hẹp của nước biển đựng trong chai. Được
như thế gọi là Ngã.
Sống
theo thế-tình, thế-tục, là sống trong ô-nhiễm. Càng đi xa trên con đường ấy là
càng lún chân trên bãi lầy của phiền-não, nghiệp-chướng do tham, sân, si, tài,
sắc, danh, lợi, thực, thùy tạo ra. Bỏ lối sống ấy mà sống một lối sống
hoàn-toàn trong sạch, lòng không dính một bụi nhơ thế-sự, được như vậy gọi là Tịnh.
Tất
cả những cái Lạc, Ngã, Tịnh vừa nói đều
do chỗ “tùy duyên bất biến, bất biến mà tùy duyên” mà có.
Ai thực-hiện
được tất cả bốn đức ấy thì được gọi là “đắc
hay nhập Niết-Bàn”.
*
*
*
Để
kết-luận, xin lập lại rằng Niết-bàn chỉ là một danh-từ dùng để chỉ một cái gì
mà ngũ quan không nhận được, ý-thức không tưởng-tượng được nhưng có và có một
cách chân-thật đối với ai đã thực-chứng, thực-nghiệm được nó. Nhưng xin đừng hiểu
là muốn có Niết-bàn phải đi
tìm nó. Càng tìm nó, nó lại càng xa, vì có tìm là tâm còn tham mnốn, mà còn
tham muốn là trái với Tịnh, với Lạc, với Ngã. Cũng đừng tưởng tới nó, vì có tưởng
là tại có muốn, mà như thế thì cũng sai rồi.
Cứ
ăn ở, cứ sống như Phật dạy, trong Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, rồi Niết-bàn tự-nhiên
sẽ đến và chừng ấy chúng ta sẽ biết Niết-bàn là gì. Đừng
tưởng đọc sách rồi biết Ba-lê. Phải đến Ba-lê mới biết Ba-lê là gì. Cũng đừng
nghe người nói nước mát rồi tưỏng là đã biết cái mát của nưởc. Muốn biết rõ, hãy
uống nước. Ngoài ra là ức tưởng, là lấy bóng làm hình.
Cũng
đừng tưởng Niết-bàn rất xa chúng ta. Không. Niết-bàn rất gần chúng ta, chúng ta
cọ vai sát cánh với nó hàng phút. Nhưng chúng ta chưa bắt tay với nó được,
chỉ vì chúng ta chưa bước qua khỏi làn ranh phân cách cái giả với cái chân, vì
chúng ta chưa thoát khỏi chứng mù mắt đang căng một tấm màng đen dày chặt giữa
cái sống rộng bao-la và cái thấy bó rọ trong ranh giới của cái hình dáng và
tên-tuổi (danh sắc) mà mỗi giờ phút làm biến đổi và chúng ta lầm tưởng là
“Ta”./.
(Phụ trương Từ Quang tạp chí, do Hội
Phật học Nam Việt ấn tống, năm
??)
Chú thích: (1) Tứ đại:
đất, nước, gió, lửa,
bốn yếu-tố vật-chất.