Chủ yếu đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau. Song lâu
đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ. Trước phải giác
ngộ nhiên hậu mới giải thoát, như nói "biết đúng mới làm đúng".
Giác ngộ Giải thoát theo liền bên nhau không thể tách rời được. Cầu Giải
thoát mà trước không Giác ngộ là sự mong cầu viển vông thiếu thực tế.
Như người mắc bệnh ghiền á phiện muốn bỏ, mà không ý thức tai hại do
ghiền á phiện gây ra, chạy cầu thầy bùa, thầy pháp xin bùa phép uống để
khỏi ghiền, là xa vời không thực tế.
Muốn bỏ bệnh ghiền á phiện, chính người ấy phải nhận thức rõ ràng tai
hại của bệnh ghiền, đồng thời lập chí cương quyết bỏ á phiện, dù bị cơn
ghiền hành hạ thế mấy, liều chết hẳn không tái phạm.
Có thế, người ấy khả dĩ thành công việc bỏ ghiền á phiện. Mọi khổ đau
trong đời sống con người đều do hành động xấu xa của con người chuốc
lấy. Muốn giải thoát mọi đau khổ, con người phải Giác ngộ, cương quyết
đập tan mọi nguyên nhân sanh ra đau khổ.
Nhân đau khổ đã nát thì quả khổ đau đâu còn. Vì thế, Giác ngộ Giải thoát
là "Cốt Lõi Ðạo Phật".
GIÁC NGỘ ÐAU KHỔ
Thuở còn làm Thái tử, sau khi chứng kiến sự sanh già bệnh chết của con
người, ngài Tất-đạt-đa quyết tâm xuất gia tầm đạo. Sau khi đã đạt đạo,
ngài thấy rõ trong mọi đau khổ chỉ luân hồi sanh tử là cái khổ to lớn
dai dẳng hơn cả. Cho nên, ngót bốn mươi chín năm Ngài thuyết pháp cốt
chỉ rõ con đường Giải thoát Sanh tử Luân hồi cho chúng sanh. Ðồng thời
Ngài cũng phương tiện vạch bày phương pháp giảm thiểu đau khổ cho những
chúng sanh chưa đủ khả năng thoát khỏi luân hồi.
GIÁC NGỘ LÝ NGHIỆP DẪN
Chúng sanh si mê tạo nghiệp, sức nghiệp lôi kéo chúng sanh đi vào luân
hồi sanh tử. Do nghiệp dẫn dắt chúng sanh mãi trèo lên tuột xuống trong
sáu nẻo luân hồi. Có khi chúng ta vui cười ở cõi trời, có khi la hét ở
cõi a-tu-la, có lúc nửa cười, nửa mếu ở cõi người, lại có khi kêu la
thảm thiết ở địa ngục, có lúc thất thểu đói khát ở ngạ quỉ, có khi ngu
si sống theo bản năng ở súc sanh. Ðang lúc bị nghiệp dẫn, chúng ta cũng
có gặp những cảnh vui, song cái vui ấy chỉ trá hình của đau khổ.
Vì là cái vui mỏng manh tạm bợ, rốt cuộc đều tan biến theo thời gian.
Nghiệp là hành động tạo tác của con người hoặc nói khác, nghiệp là động
lực thúc đẩy lôi kéo chúng sanh đến nơi thọ quả. Cụ thể hơn, nghiệp là
sức bảo tồn mạng sống hiện tại của con người.
Do hành động tạo tác nhiều lần, thành thói quen, có sức mạnh lôi cuốn
con người đi theo thói quen là nghiệp. Ban đầu ta làm chủ tạo nghiệp,
nghiệp thành, làm chủ chi phối lại chúng ta. Như người khi mới tập uống
rượu và sau khi đã ghiền rượu. Nghiệp dẫn dắt chúng ta lang thang trong
sáu nẻo luân hồi đều do cái sở tập của mình mà nên.
Sự sống là động, ngừng mọi hoạt động trong thân thì chết. Như mũi tên
rời dây cung bay bổng trong không là do sức đẩy, sức đẩy mãn thì mũi tên
phải rơi. Sự sống của thân chúng ta đều do sức nghiệp, nhờ gió nghiệp
thu hút tứ đại bên ngoài vào thân, cũng do gió nghiệp tống tứ đại phế
thải trong thân ra ngoài, gió nghiệp dừng thì thân này phải hoại. Có bài
tụng:
Ðem vào nhờ gió nghiệp
Tống ra cũng gió đưa
Sự hô hấp tuần hoàn
Tất cả đều do gió.
Một phen gió nghiệp dừng
Thân này như khúc gỗ.
Thế nên, sự tồn tại của thân hiện nay và sự tiếp nối của thân mai sau
đều do nghiệp. Còn nghiệp là còn sự sống và tiếp nối sự sống. Nghiệp chủ
động trong vòng sanh tử của chúng sanh.
Nghiệp có nhiều thứ, nói đơn giản chỉ có hai thứ thuộc ba lớp khác nhau:
thiện nghiệp, ác nghiệp, tích lũy nghiệp, cận tử nghiệp, định nghiệp,
bất định nghiệp. Những hành động lành tạo thành thói quen là thiện
nghiệp, sẽ dẫn dắt sanh trong các cõi lành. Những hành động dữ tạo thành
thói quen là ác nghiệp, sẽ lôi cuốn vào các cõi dữ.
Trong lục đạo luân hồi, tùy nghiệp lành cao thấp sẽ sanh trong ba đường
lành: người, a-tu-la, trời. Nghiệp dữ tùy nặng nhẹ sẽ sanh trong ba
đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Vì thế, lành dữ đều do nghiệp,
nghiệp lại chính là hành động hằng ngày của chúng ta. Muốn tương lai vui
hay khổ đều do ta quyết định. Chính chúng ta là người làm chủ vận mạng
của chúng ta, không ai khác có thể đem vui khổ lại cho chúng ta, kể cả
đức Phật. Chúng ta là người định đo?t số phận của mình ngay trong hiện
tại và vị lai.
Hằng ngày chúng ta gây tạo nghiệp lành hay dữ tích lũy thành sức mạnh,
dẫn dắt chúng ta đến chỗ tương ứng thọ sanh, gọi là tích lũy nghiệp.
Thuở Phật tại thế, Thích-ma-ha-nam đến bạch Phật: Hằng ngày con giữ năm
giới tu thập thiện... nếu đi đường gặp cọp dữ, voi dữ hại, khi ấy chết
con sẽ sanh về đâu? Ðức Phật đáp: Như cây to đang nghiêng hẳn về một
chiều, bị người cưa sẽ ngã về đâu? Ðây là hiệu năng của tích lũy nghiệp.
Chúng ta sắp chết mà nghiệp thiện, ác chưa nghiêng hẳn bên nào, khi ấy
tâm niệm thiện dấy mạnh, hoặc tâm niệm ác dấy mạnh liền theo đó thọ
sanh, là cận tử nghiệp. Người ta thường quan trọng giờ phút lâm chung là
vì thế.
Trợ niệm bằng cách nhắc lại giáo pháp mà người sắp chết đã nghe, cho họ
dễ tỉnh giác, hoặc tụng kinh niệm Phật theo sở thích hằng ngày của họ,
khiến thêm sức mạnh để họ đi theo con đường đã chọn.
Thân miệng ý cộng tác tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ, kết quả tất yếu
phải thọ báo lành hay dữ là định nghiệp. Thân miệng riêng lẻ tạo nghiệp
lành hay dữ, kết quả có thể thay đổi được là bất định nghiệp.
Ví như có người ý thù ghét, miệng chửi, tay đánh một đối phương, sau đó
họ ăn năn đến xin lỗi, đối phương dù có tâm lượng rộng rãi đến đâu thử
hỏi có tha thứ dễ dàng chăng? Ngược lại, có người vô tình hoặc lầm lẫn
chửi hay đánh kẻ khác, sau đó anh biết lỗi đến xin lỗi, chắc chắn nạn
nhân kia tha thứ chẳng khó.
GIÁC NGỘ TU NGHIỆP THIỆN
Biết thân miệng ý là chỗ xuất phát nghiệp, người phát tâm qui y Tam Bảo,
trước tiên phải giữ năm giới. Trong năm giới không sát sanh, không trộm
cướp, không tà dâm là ba điều thiện của thân; không nói dối, không uống
rượu là hai điều thiện của miệng. Chỉ tu năm điều thiện này là đủ cung
cách một người tốt trong xã hội hiện tại, và sẽ làm người tốt ở vị lai.
Giữ trọn năm giới là đóng cửa ba đường ác (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh),
không bao giờ ta bước chân đến ba chỗ này. Thế nên, Phật chế năm giới
là phương tiện giảm thiểu đau khổ cho con người trong hiện tại và vị
lai.
Nếu giữ trọn mười điều thiện sẽ được sanh lên cõi trời, là con đường
lành cao nhất trong sáu đường. Giữ mười điều thiện là tu đủ ba nghiệp:
nơi thân không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; nơi miệng không
nói dối, không nói hai lưỡi (nói lật lọng), không nói hung dữ, không nói
thêu dệt; nơi ý bớt tham, bớt sân, không tà kiến. Tà kiến là nhận định
lệch lạc không đúng lẽ thật, gốc từ si mê mà ra. Phật dạy: "Thấy đúng
nhân quả là chánh kiến, thấy sai nhân quả là tà kiến." Ba nghiệp biết tu
thiện là tạo nguồn an lạc hiện tại và mai sau.
Ngược lại, ba nghiệp tạo đầy đủ mười điều ác là nhân của địa ngục. Ð?a
ngục là đường khổ nhất trong sáu đường luân hồi. Ðâu đợi xuống địa ngục
mới khổ, ngay trong cuộc sống hiện tại này, nếu người làm đủ mười điều
ác, sẽ thấy một đời hoàn toàn đau khổ. Chúng ta thử nhìn người ưa sát
sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, tham lam,
sân hận, tà kiến có lúc nào họ được yên ổn đâu. Dù họ ở địa vị thế nào
trong xã hội, bản thân và tâm hồn họ vẫn đen tối và đau khổ dài dài.
Phật dạy người Phật tử tu thập thiện cốt để đầy đủ phước đức, đời sau
sanh ra sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu trong cõi dục giới này. Song đây
chưa phải là lối tu giải thoát, đau khổ cứu kính, cần tiến lên những bậc
trên nữa mới hoàn toàn giải thoát đau khổ. Tuy nhiên, trên đường tu,
trước giữ năm giới, kế tu thập thiện là cơ bản là hai nấc thang đầu trên
cây thang giải thoát. Thiếu nó, người tu sẽ chới với không thể tiến lên
được.
GIÁC NGỘ DỨT NGHIỆP
Sanh tử gốc do nghiệp dẫn, muốn hết sanh tử phải hết nghiệp. Nghiệp phát
xuất từ thân miệng ý, song chủ động là ý. Ý có nghĩ lành dữ, thân miệng
mới tạo nghiệp lành dữ. Ý lặng rồi thì thân miệng đâu còn cơ sở tạo
nghiệp. Như chiếc xe lăn bánh chạy trên đường, gốc từ cháy xăng nổ máy,
muốn xe dừng thì phải hãm xăng tắt máy. Cái chủ động đã dừng, các bộ
phận bị động cũng dừng.
Người tu quyết giải thoát luân hồi, sanh tử phải chận đứng ý nghiệp. Khi
nào ý nghiệp vắng bặt rồi, chắc chắn mình thoát ly sanh tử. Phương tiện
dừng ý nghiệp: Phật dạy có nhiều lối, gọi là những pháp môn tu. Pháp
môn tu thiền, pháp môn tu tịnh độ...
Mỗi pháp môn đều nhằm đập chết con khỉ ý thức. Tu thiền phải được định,
niệm phật phải nhất tâm. Ðã định thì ý thức đâu còn hoạt động, nhất tâm
thì con khỉ ý đã chết lịm rồi. Vì thế tu thiền đến diệt tận định thì
nhập Niết-bàn (vô sanh), niệm Phật đến nhất tâm bất loạn thì thấy Phật
A-di-đà đến đón về cực lạc. Nhập Niết-bàn thì không còn sanh tử, về cực
lạc thì hết luân hồi trong lục đạo. Ðược về Cực lạc (vui tột) hay nhập
Niết-bàn (vô sanh) mới thật là giải thoát khổ đau hoàn toàn miên viễn.
Ðây là chỗ đức Phật Thích-ca nhằm hướng dẫn chúng sanh đạt đến.
Muốn niệm Phật được nhất tâm phải tin chắc về sự, hoặc nhận thực về lý.
Tin chắc về sự, là tin có cõi cực lạc, có đức Phật A-di-đà tiếp dẫn, tin
mình niệm Phật sẽ được vãng sanh. Nhận thực về lý, là nhận rõ tâm tịnh
thì độ tịnh. Phật A-di-đà là tánh giác của mình, phương pháp niệm Phật
là một cách lóng lặng cho tâm mình thanh tịnh, có câu "Tự tánh Di-đà,
duy tâm Tịnh Ðộ".
Ðã đủ lòng tin hay nhận thực ấy rồi, hành giả bắt đầu thực hành bằng
niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà. Miệng niệm lỗ tai lắng nghe, phải nghe
rõ ràng từng tiếng niệm của mình, dù niệm thầm cũng vậy. Niệm có chuỗi
cũng tốt, không chuỗi cũng được. Cốt yếu cột tâm trong sáu chữ Di-đà,
không cho tâm phóng chạy ra ngoài.
Ban đầu niệm Phật có thời khóa hay có số chuỗi, sau quen rồi trong bốn
oai nghi, trong mọi hoạt động đều nhớ niệm Phật. Chỉ ngoài giờ ngủ ra,
tất cả giờ đều là giờ niệm Phật. Người niệm Phật tin về sự, sau thời
niệm Phật đều phát nguyện hồi hướng sanh về cực lạc. Cõi cực lạc là mục
tiêu qui hướng tuyệt đối của người này. Ðức Phật di-đà sẽ đến đón họ
trước giờ lâm chung, khẳng định như vậy.
Người niệm Phật nhận thực về lý, hướng thẳng về tâm thanh tịnh của mình.
Như nói "Trì Thành Nguyệt Hiện", hồ nước đào xong, nước hồ lóng trong
thì mặt trăng hiện. Nước hồ trong là tâm thanh tịnh, bóng trăng hiện là
tánh giác hiện bày. Tánh giác là Phật Di-đà, tâm thanh tịnh là cực lạc.
Tin về sự là hướng ra ngoài, nhận thực về lý là nhắm thẳng tâm mình.
Tuy sự lý trong ngoài có khác, song trên phương diện thực hành chủ yếu
được nhất tâm. Nhất tâm là mục đích duy nhất của phương pháp niệm Phật.
Dù tin sự hay hiểu lý mà niệm Phật không nhất tâm thì cũng chẳng đến
đâu.
Muốn tu thiền được định tùy trình độ sai khác cũng có nhiều lối tu khác
nhau. Tổng quát có hai lối, thiền tiệm thứ và thiền đốn ngộ.
THIỀN TIỆM THỨ
Thiền tiệm thứ là lối tu thiền theo thứ lớp tuần tự tiến lên, có đề mục,
có phương pháp, ứng dụng tu pháp này xong, tiến lên pháp khác, có sở
chứng sở đắc từ thấp đến cao. Như lối tu quán tứ niệm xứ, minh sát tuệ
(Xem sách Thiền Nguyên Thủy). Hoặc tu lối Lục diệu pháp môn. Ðây là sáu
cửa mầu nhiệm tiến vào thiền.
Ban đầu là Sổ tức, là lối đếm hơi thở. Hít hơi vào cùng, đếm một, thở ra
sạch đếm hai. Hoặc cả hai hơi vô hơi ra đếm một, chú tâm vào hơi thở vô
và ra đến đâu đều biết, nhớ số từ một đến mười không cho lộn. Ðến mười
đếm lại một, nếu giữa chừng quên số cũng đếm trở lại một. Cột tâm theo
hơi thở và số, vừa dấy nghĩ liền kéo lại với số và hơi thở. Chú ý đừng
cố đem hơi xuống rún sanh mệt. Hơi vừa dài vừa nhẹ là tốt. Ðến bao giờ
ngồi thiền cả giờ mà chỉ nhớ số và hơi thở là thành công.
Sang Tùy tức là theo hơi thở. Ðến đây bỏ không đếm số chỉ duyên theo hơi
thở ra vào, chú tâm theo hơi thở vô đến đâu biết rõ đến đó, ra đến đâu
theo đến đấy. Tâm cột với hơi thở, vừa có nghĩ khác kéo lại hơi thở.
Theo sát hơi thở không phút giây lơi lỏng, cho đến khi chỉ còn biết hơi
thở ra vào không nghĩ gì khác là xong phần tùy tức.
Tu Chỉ: Dừng tâm ở mũi xem hơi thở ra vào, như người gác cổng nhận diện
từng người khách ra vào không sai sót. Trụ tâm ở mũi lâu sanh hôn trầm
liền khởi quán.
Tu Quán: Quán hơi thở ra vào là tướng vô thường mỏng manh tạm bợ. Mạng
sống lại nương hơi thở mà còn thì mạng sống cũng mong manh tạm bợ. Quả
thật mạng sống chỉ trong khoảng hơi thở ra vào, thở ra mà không hít vào
là chết, có gì là chắc chắn lâu dài. Thấy được lẽ thật này là thấy Ðạo.
Hoặc quán hơi thở vào do phổi phồng lên, hơi thở ra do phổi xẹp xuống.
Khi phổi phồng lên, thì mũi hít không khí vào, phổi xẹp xuống thì đẩy
không khí ra. Bên ngoài có không khí, bên trong có phổi, hợp với tâm lý
tác động thành sự thở. Sự thở không tự có, đủ duyên mới có, đã do duyên
thì hơi thở không thật. Sự thở đã không thật, mạng sống lại nương theo
hơi thở mà có thì mạng sống cũng không thật. Quán rõ thấy mạng sống như
huyễn hóa là thành công.
Tu Hoàn: Quán nhiều sanh động, nên xoay lại tìm xem tâm năng quán này ở
đâu? Tìm đáo để, không thấy nó thì năng sở tự yên lặng.
Tu Tịnh: chỗ năng sở yên lặng này là tâm thanh tịnh. Giờ ngồi thiền xả
hết vọng niệm chỉ còn một tâm thanh tịnh là tu tịnh. Tâm thanh tịnh bền
bỉ lâu dài là xong xuôi phần tu Lục diệu pháp môn (cần đọc quyển Lục
Diệu Pháp Môn của Trí Khải Ðại Sư).
THIỀN ÐỐN NGỘ
Thiền đốn ngộ là lối tu trực ngộ bản tâm, gọi là kiến tánh khởi tu.
Không có đề mục, không có phương pháp, không có sở chứng sở đắc, chỉ mê
là chúng sanh, ngộ là Phật nên nói "Kiến tánh thành Phật". Lối tu này
không tu mà tu, không chứng mà chứng. Bởi vì khi hành giả trực nhận bản
tâm, biết rõ nơi mình có cái không sanh không diệt, mà từ thuở nào mãi
chạy theo cái tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi. Ngang đây biết rõ bộ
mặt sanh diệt của nó, không chạy theo nữa, khi nó dấy lên không cho nối
tiếp, không khởi thì lặng yên đừng dấy niệm. Tổ Lâm Tế nói: "Ðã khởi chớ
tiếp nối, chưa khởi chẳng cần dấy khởi, còn hơn ông hành cước mười
năm." Cổ Ðức cũng nói: "Chớ sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm." Thiền sư Vô
Nghiệp suốt đời chỉ dùng một câu "chớ vọng tưởng" trả lời tất cả câu hỏi
của thiền khách.
Có người bảo lối tu này là "Tảo niệm" (quét sạch niệm), song khi ngồi
thiền quét, lúc tiếp duyên, xúc cảnh thâu lại. Cứ quét rồi thâu đến bao
giờ mới hết niệm? Ðúng thế, nếu người tu chỉ biết quét khi ngồi thiền,
lúc ra ngoài thì thâu lại, thật là gian nan cho lối tu này. Song ở đây
không phải vậy, khi ngồi thiền không theo niệm, lúc ra ngoài thấy các
pháp đều duyên hợp hư dối như huyễn hóa không có một pháp đáng lưu tâm,
thì làm gì có thâu, ví như người đi chợ, cô ta dạo qua các cửa hàng chen
chúc với bao nhiêu người qua lại trên đường phố, nhưng không có vật gì
và người nào đáng cho cô để ý. Về đến nhà, người nhà hỏi: đi chợ có thấy
gì không? Cô đáp: không. Có phải thật không thấy gì chăng? Hẳn không
phải thế, chỉ không có gì quan trọng đáng cô chú ý nên nói không thấy
gì. Khi tiếp duyên xúc cảnh, hành giả thấy rõ các pháp như huyễn hóa, tự
nhiên không có gì đáng để thâu. Bên trong có bao nhiêu vọng tưởng dấy
lên đều không tiếp tục, lâu ngày tự hết.
Lại có người bảo "không theo niệm" nhẹ nhàng quá, nếu người tọa thiền bị
hôn trầm nặng nề làm sao đuổi được? Nếu khi hôn trầm nặng nề, hành giả
chấn chỉnh thân, mở mắt sáng mà không hết, nên khởi niệm tìm xem hôn
trầm này xuất phát từ chỗ nào? Tức là đặt câu hỏi: "Hôn trầm xuất phát
từ chỗ nào?" Theo dõi lùng tìm nó thì hôn trầm sẽ tan. Khi gặp tán loạn
mãnh liệt cũng thế. Hành giả nên đặt câu hỏi: "Vọng tưởng này xuất phát
từ chỗ nào?" Tìm kiếm nó một lúc sẽ hết. Khi hôn trầm tan, vọng tưởng
lặng liền trở lại lối tu "không theo niệm" như trước.
Lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa "Chăn Trâu Thiền Tông". Mã Tổ
hỏi Thiền sư Thạch Củng: Ông làm gì đây? Sư đáp: Con chăn trâu. Mã Tổ
hỏi: Chăn như thế nào? Sư đáp: Mỗi khi nó chạy vào ruộng lúa thì lôi mũi
kéo lại. Mã Tổ bảo: Thế là ông chăn giỏi, chỉ chăn giữ không cho trâu
xâm phạm mạ của người là biết chăn trâu. Con trâu là tâm, chạy loạn vào
lúa mạ là vọng khởi theo sáu trần, dừng lại không theo là lôi mũi kéo
về. Cứ thế mãi, giờ ngồi thiền chăn, giờ làm công tác chăn, giờ dạo
chơi, tiếp khách cũng chăn... không lơi lỏng. Thế nên nói, hái rau, chặt
củi, nấu cơm, đều là thiền. Chăn cho đến khi trâu không còn, người chăn
cũng mất, đây là hoàn toàn an định. Thiền sư Lương Giới tìm đến am
tranh Hòa thượng Ẩn Sơn hỏi: Hòa thượng ở đây làm gì? Ẩn Sơn đáp: Tôi
thấy hai con trâu báng lộn nhau, chạy ùm xuống sông, đến nay không có
tin tức. Sư đắp y đảnh lễ. Ðây là mục thứ tám trong mười mục chăn trâu
nhà thiền, trâu và chăn đều vắng bặt chỉ còn một vòng tròn trắng. Ðến
đây ý nghiệp yên lặng không còn lôi kéo vào luân hồi sanh tử nữa. Nếu
hàng Nhị thừa đến đây là nhập Niết-bàn, vì đã dứt sạch nghiệp sanh tử.
GIÁC NGỘ PHÁP THÂN
Dứt sạch nghiệp mới gọi là hết sanh tử, chưa phải thành Phật. Về các
kinh A-hàm đến đây là chứng Niết-bàn (Vô Sanh) của A-la-hán. Kinh Pháp
Hoa Phật bảo là Hóa thành không phải Bảo sở, về Thiền tông gọi đây là
đất Vô sanh, là Tử thủy (nước chết) là đầu sào trăm trượng, cần phải
vượt qua mới được. Căn cứ vào mười mục chăn trâu nhà Thiền, chỗ này mới
là mục thứ tám chăn và trâu đều mất. Phải tiến lên mục thứ chín là lá
rụng về cội, nước chảy về nguồn mới được, mục này gọi là nhập Phật giới
hay nhập Pháp thân. Cần vượt lên mục thứ mười là buông lỏng tay vào chợ
hay nhập ma giới, mới vuông tròn công đức thành Phật. Dứt sạch nghiệp
mới thoát khỏi đau khổ trong sanh tử cho chính mình, song chưa đạt Pháp
thân, chưa viên mãn công đức cứu khổ chúng sanh, cần phải hòa quang đồng
trần làm lợi ích tất cả chúng sanh mới vẹn tròn công đức thành Phật.
THẦM NGỘ LÀ ÐỦ LÒNG TIN
Có người nghĩ, hành giả chưa trực ngộ bản tâm tu thiền đốn ngộ được
chăng? Trực ngộ bản tâm là chủ yếu của người tu thiền đốn ngộ. Song có
người chưa ngộ mà đủ lòng tin, tu vẫn được. Xem kinh, đọc luận, hỏi đạo,
nghe giảng... thầm nhận mình có bản tâm bất sanh bất diệt, khẳng định
không nghi ngờ, người này tu thiền đốn ngộ được. Thiền sư Pháp Thường
đến hỏi Mã Tổ: Thế nào là Phật? Mã Tổ đáp: Tức tâm là Phật. Sư thầm
nhận, đến núi Ðại Mai cất am tu. Sau Mã Tổ nghe, sai vị Tăng đến thăm
dò. Tăng đến hỏi Sư: Hòa thượng gặp Mã Tổ, được cái gì về ở núi này? Sư
đáp: Mã Tổ nói với tôi: tức tâm là Phật, tôi bèn đến ở núi này. Tăng
thưa: Gần đây Mã Tổ lại nói "Phi tâm phi Phật." Sư bảo: Ông già mê hoặc
người, chưa có ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tức tâm
là Phật. Vị Tăng trở về thuật lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Ðại
chúng, trái mai đã chín. Ðây là tin nhận mình có bản tâm chân thật một
cách chắc chắn là tu thiền đốn ngộ hay chăn trâu được.
Hoặc giả nhận rõ vọng tưởng hư dối như sương như khói, không theo, không
bị nó dẫn, đến khi nó tan biến hoàn toàn, chân tâm hiển lộ. Ngài Huệ
Khả sau khi được Tổ Ðạt-ma nhận làm môn đồ, Ngài hỏi Tổ: Tâm con chưa
an, xin Thầy dạy con phương pháp an tâm? Tổ Ðạt-ma nhìn thẳng vào mặt
bảo: Ðem tâm ra ta an cho. Ngài sửng sốt lặng tìm liền đáp: Con tìm tâm
không được. Tổ Ðạt-ma bảo: Ta đã an tâm cho ông. Ngài Huệ Khả liền biết
lối vào. Bình nhật chúng ta thấy tâm tưởng lăng xăng, khi nhìn lại thì
mất bóng bặt dạng. Thế là nó hư dối không thật. Biết rõ nó hư dối thì nó
không còn khả năng lôi cuốn dẫn dắt chúng ta nữa. Không chạy theo không
bị dẫn, chẳng an là gì? An tâm là nhìn thẳng bộ mặt hư dối của nó, nó
tự tan biến, còn gì nữa mà động. Thời gian sau, ngài Huệ Khả thưa Tổ
Ðạt-ma: Nay con bặt hết các duyên. Tổ Ðạt-ma bảo: Coi chừng rơi vào đoạn
diệt. Ngài Huệ Khả thưa: Không rơi. Tổ Ðạt-ma hỏi: Thế nào không rơi?
Ngài Huệ Khả thưa: Rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Tổ Ðạt-ma
nói: Ðây là chỗ truyền của chư Phật, chớ có hoài nghi. Thế là, từ nhận
biết tâm bất an là hư dối, ngài Huệ Khả chăn nó đến lúc không còn tâm
dạng là: "bặt hết các duyên" chỉ còn lại cái: "rõ ràng thường biết" là
chỗ chư Phật truyền nhau.
Có nhiều người học đạo đã thầm nhận mình có cái chân thật sẵn đủ, hoặc
biết rõ vọng tâm hư dối, mà vẫn chưa đủ lòng tin để tiến tu, họ cứ đòi
phải ngộ mới tu được. Quả thật họ đang đuổi theo cái ảo ảnh của danh từ
ngộ. Ðâu biết rằng tin chắc không nghi là đã thầm ngộ.
KẾT THÚC
Trên tiến trình tu tập từ phàm phu đến Phật quả thật là thăm thẳm gian
truân. Song vì ý thức được sự đau khổ trong kiếp mê lầm, sự đọa đầy
trong vòng lục đạo, chúng ta phải nỗ lực tiến tu. Nhờ thắp sáng ngọn
đuốc trí tuệ, chúng ta mới thấy đường để tháo gỡ những gút mắc của muôn
ngàn sợi dây nghiệp báo. Gỡ sạch những vòng dây nghiệp báo rồi, chúng ta
được thảnh thơi, tự tại. Song, thân bằng quyến thuộc ta, đồng bào, đồng
loại ta, đang bị chúng bủa vây bao phủ, đành lòng nào chúng ta lại ngó
lơ. Thế là, vén áo xăn quần, chúng ta lao mình vào cõi trần ai để dìu
dắt nhân loại thoát khỏi vòng khổ ải. Ðây là hình ảnh Thiền sư vai mang
chiếc đãy, tay cầm bầu rượu, kết bè họp bạn với đám người đầu đường xó
chợ. Ðem ánh sáng hòa lẫn với bụi bặm, quả là "đầu tro mặt đất" lang
thang. Có thế mới tròn bản nguyện đại bi, mới đủ công đức giải thoát
chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ. Cứu mình, độ người được viên mãn, đều
đặt gọn trên nền tảng giác ngộ giải thoát của đạo Phật.