Mối họa "sư tử lạ"
Thời gian vừa qua dư luận tỏ ra quan tâm
đến việc ở một số nơi người ta xếp đặt sư tử đá của Trung Quốc trong
các công trình tôn giáo, văn hoá. Một số tác giả, nhà nghiên cứu đã lên
án hiện tượng này và cho rằng đây là một "mối họa sư tử". Cũng có người
đặt ra câu hỏi như: Sư tử đá đặt trước cửa chùa có hợp văn hoá Việt
Nam hay không? Có phải sư tử đá là một biểu tượng thẩm mỹ chỉ phổ biến
trong các công trình kiến trúc Trung Quốc? Không hiểu họ làm mới di
tích hay phá hoại văn hoá?...
Những câu hỏi như trên đã thúc giục
chúng tôi tìm hiểu về ý nghĩa văn hoá, tôn giáo của biểu tượng sư tử.
Trong khuôn khổ bài viết, chỉ xin tìm hiểu mô-típ sư tử ở lĩnh vực kiến
trúc, điêu khắc Phật giáo để xem thực chất nó có "xa lạ" với văn hoá Phật giáo hay không.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư: "Hình
tượng sư tử vờn khối cầu hay khối ngọc là một mô-típ thường gặp trong
nghệ thuật điêu khắc cổ, xuất hiện khá muộn vào cuối thế kỉ 14 trong một
bức chạm trên nhang án chùa Xuân Lãng, tỉnh Phú Thọ (niên đại 1392).
Hình ảnh sư tử giai đoạn này mang nhiều nét dân gian, có phần gần giống
hổ. Vào thời sau, ở 2 di tích tháp Bình Sơn thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc và đình Lỗ Hạnh tỉnh Bắc Ninh thế kỷ 16, hình ảnh sư tử được
đồng nhất với lân, các chi tiết được chạm tinh tế hơn...".
Điều chúng tôi quan tâm ở đây là biểu
tượng sư tử trong văn hoá Phật giáo, chứ không phải "mẫu" của những con
sư tử cụ thể, mới được trang trí trong một số đình chùa, đền miếu hiện
nay.
Qua một số dịp đi khảo sát thực tế và
được tiếp cận với một số tư liệu Phật giáo, chúng tôi nhận thấy sư tử là
một biểu tượng văn hoá, thẩm mỹ, điêu khắc phổ biến, quen thuộc của
Phật giáo. Hình tượng sư tử được nói đến trong rất nhiều kinh điển Đại
thừa Phật giáo như Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thắng Man (Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại PhươngTiện Kinh)...
Đức Phật được ví như Sư tử chúa và tiếng
rống của Sư tử (sư tử hống) được lấy làm ví dụ cho tiếng thuyết pháp
của Đức Phật, có uy lực nhiếp phục muôn loài.
Sư tử không chỉ được ví cho sự xuất thân
vương giả của Đức Phật mà sau này còn trở thành biểu tượng của triều
đại vua A-Dục, một vị vua Phật đã cử những phái đoàn đi khắp nơi trên
thế giới để truyền bá tư tưởng đạo Phật. Ông đã cho chạm trổ rất nhiều
những cột trụ sư tử ở khắp đất nước với những sắc dụ ảnh hưởng sâu sắc
lời dạy của Đức Phật. Về sau, biểu tượng cột đá sư tử đã được Chính phủ
Ấn Độ sử dụng làm Quốc huy.
Theo thời gian, biểu tượng sư tử đã trở
thành một mô-típ phổ biến trong các tác phẩm nghệ thuật Phật giáo cả
Nam lẫn Bắc, và được mỗi nền văn hoá, tiếp biến và sử dụng ở những mức
độ đậm nhạt khác nhau.
"Văn hóa sư tử" trong các chùa Việt
Ở nước ta, những con vật như: Cá sấu,
lân, nghê, sư tử dần thâm nhập vào nhau và trở thành một mô-típ khá đặc
trưng ở khắp các ngôi chùa miền Bắc. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh:
"Các nhà chép sử ở thời Lý - Trần xưa kia gọi giống cá sấu Chiêm Thành
đem tiến cống là sư tử, tức sấu (hình con sấu trên nắp lư hương)..." (1).
Cụ thể, trong chùa thường có hai vị
Thiện - Ác Hộ pháp cao lớn, mặc giáp trụ, cầm bảo khí, ngồi trên lưng
sấu, một loại sư tử trong huyền thoại, trông rất uy dũng, dự tợn. Ngài
Văn Thù Bồ tát (tượng trưng cho trí tuệ Phật giáo) thường được tạc ngồi
trên lưng sư tử xanh và Ngài Phổ Hiền Bồ tát (tượng trưng cho hạnh
nguyện Phật giáo) ngồi trên lưng voi trắng. Ngoài ra sư tử còn được đúc
trên rất nhiều lư hương, chạm trổ trên các bệ thờ, chân tòa sen Đức
Phật ngồi, lan can...
Đến đây, chúng ta có thể xác định "văn
hoá sư tử" trái lại không hề xa lạ mà còn phổ biến trong các tác phẩm
nghệ thuật Phật giáo trải từ thời Lý - Trần - Lê - Mạc và Lê trung hưng,
dù về sau thời Nho giáo thịnh hành, biểu tượng rồng, rùa... có vẻ lấn
lướt hơn.
Hiện chùa Phật Tích - Bắc Ninh còn giữ
được 5 cặp tượng thú điêu khắc đá thời Lý khá lớn như: Sư tử, voi, trâu,
ngựa, tê giác. Cặp sư tử cao khoảng 1,2m, nằm sát bụng trên bệ hoa
sen, có chức năng canh đường vào tháp, kiểm soát tư cách người vào
chùa... Chùa Thông (Du Anh), Thanh Hóa cách thành nhà Hồ 3,5 km về phía
Nam, thế kỷ 13, cũng còn lưu giữ một tượng sư tử bằng đá khá lớn, gần
giống với tượng sư tử đá chùa Phật Tích, phong cách điêu khắc vào giai
đoạn cuối thời Lý đầu thời Trần (2).
Sư tử không chỉ được thể hiện trong nghệ
thuật cổ của người Việt mà còn trở thành một linh vật phổ biến trong
điêu khắc đá cổ Chăm Pa (Chiêm Thành).
"Hình tượng sư tử trong điêu khác đá
Champa là biểu tượng của chính giáo chống lại tà giáo và bảo vệ người tu
hành chính đạo. Về ý nghĩa xã hội, sư tử hay còn gọi là Simha được coi
là biểu tượng cho dòng dõi quý tộc, quản vương và tượng trưng cho
quyền uy, sức mạnh vương quyền của các vua Chăm Pa.
Vì vậy, ngai vàng của vua còn có tên là
Simhasana (ngai vàng sư tử), ngai ngồi của thần Visnu, hay của Phật
cũng gọi là Simhasana" (3). Hầu hết sư tử được trang trí đều
là sư tử đực, ở tư thế đứng 2 chân, gần giống với sư tử được chạm trên
các cột đá của vua A Dục. Biểu tượng sư tử phổ biến trong điêu khắc đá
Chăm Pa, tập trung nhiều ở Trà Kiệu, Quảng Nam.
Đang có sự ngộ nhận văn hóa?
Lịch sử cho thấy, dù có giao thoa văn hoá, hay vay
mượn thì người Việt vẫn luôn chế tác ra những biểu tượng mang hồn cốt,
tình cảm của dân tộc mình. Chúng ta cần dũng cảm loại bỏ những con "sư
tử lạ" với phong cách thẩm mỹ của người Việt ra khỏi các công trình
kiến trúc tôn giáo. Một đôi sử tử đá mang phong cách nghệ thuật của
người Việt đứng uy nghiêm canh giữ trước cổng chùa, tháp, tại sao lại
không thể?
|
Như vậy có thể thấy, biểu tượng sư tử đứng (ngồi) canh tháp, canh cổng
vào chùa trở nên phổ biến trong các công trình kiến trúc tôn giáo của
Việt, Chiêm, Khmer. Nhưng vì sao các biểu tượng đó được trang trí như
một mô-típ gần như bắt buộc trong các chùa tháp của Chiêm Thành và
Khmer, trong khi những gì tìm hiểu được ở Việt Nam chỉ có thể cho chúng
ta lắp ghép một số dữ kiện xa hơn vào các triều Lý - Trần (4)?
Chúng tôi cho rằng nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc thời Lý - Trần có sự ảnh hưởng và giao thoa với nghệ thuật
kiến trúc và điêu khắc Chiêm Thành, đặc biệt nền văn hoá của 2 dân tộc
đều chịu ảnh hưởng mạnh bởi triết lý, tư tưởng đạo Phật và đạo
Bà-la-môn. Cho đến khi Nho giáo thịnh hành vào thời Lê, Nguyễn thì những
yếu tố văn hoá Phật giáo bị phai nhạt dần và có thể mất đi những lề
lối kiến trúc, điêu khắc quen thuộc sau khi trải qua các giai đoạn
trùng tu khác nhau.
Có thể nói, biểu tượng sư tử đá được đặt
trước các cổng, bậc tam cấp chùa, tháp (có chức năng canh giữ...) hay
được điêu khắc ở nhiều vị trí khác nhau, ở những nội dung thẩm mỹ, tôn
giáo khác nhau trong một quần thể kiến trúc là một nét văn hoá đặc thù
cần được tiếp tục nghiên cứu sâu rộng hơn. Cũng cần tìm hiểu xem biểu
tượng sư tử từ trong kiến trúc tôn giáo đã ảnh hưởng đến kiến trúc lăng
mộ về sau này như thế nào.
Điều đáng nói, sự "ngộ nhận văn hoá"
không đến từ ý nghĩa của biểu tượng mà đến từ hình thức cụ thể của biểu
tượng. Thực tế đã xuất hiện những "mẫu" sư tử do một số cơ sở điêu khắc
đá "sao chép" từ mẫu sư tử đá mà người ta bắt gặp đâu đó trong phim
ảnh Trung Quốc, được một số người tiến cúng vào các cơ sở tín ngưỡng,
tôn giáo, dẫn đến những so sánh không tránh khỏi sự khập khiễng.
Biểu tượng văn hoá này không chỉ phổ biến ở Trung Quốc mà tiếc thay, còn phổ biến ở các dân tộc như Việt, Chiêm, Khmer.
Lịch sử cho thấy, dù có giao thoa văn
hoá, hay vay mượn thì người Việt vẫn luôn chế tác ra những biểu tượng
mang hồn cốt, tình cảm của dân tộc mình. Chúng ta cần dũng cảm loại bỏ
những con "sư tử lạ" với phong cách thẩm mỹ của người Việt ra khỏi các
công trình kiến trúc tôn giáo. Một đôi sử tử đá mang phong cách nghệ
thuật của người Việt đứng uy nghiêm canh giữ trước cổng chùa, tháp, tại
sao lại không thể?
Điều chúng ta nặng lòng trăn trở chính
là cuộc sống đang thiếu dần đi những người có tâm huyết nêu bật được hồn
cốt nghệ thuật của tổ tiên mình. Phải chăng nghệ thuật sao chép đang
lên ngôi, hay thực trạng vay mượn vô ý kể trên cho thấy ngay cả văn hoá
cũng đang phải quay cuồng sống gấp?
Chú thích:
1. Lịch sử cổ đại Việt Nam, Ðào Duy Anh, Nxb Văn Hóa - Thông Tin, 2005, tr. 31-32.
2. "Tượng sư tử", website của Bộ Văn hoá Thể thao và du lịch (Nguồn: http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/mythuat/hoihoadieukhac/tuongco/chuong2/2.8/2.8.1.htm).
3.Theo website Bảo tàng lịch sử Việt Nam, (Nguồn: http://www.nmvnh.org.vn/portal/vi/Trung-bay/AAbt/?AAbout_catid=184&AboutId=657).
4. Có thể tìm hiểu thêm: Lan can bậc
trang trí hình con sấu, mang phong cách nghệ thuật thời Lý chùa Phúc Lâm
(Hà Nội). Đôi sấu thời Trần ở tam quan chùa Phổ Minh (Nam Định). Chùa
Sùng Phúc (Gia Lâm, Hà Nội) được khởi dựng vào thời Lý, hiện còn 2 sư
tử đá đội bệ Tam Thế (mỗi sư tử cao 1m, ngang 1,4m), 1 con sấu đá (dài
2m) ở thành bậc lan can.
Tượng 2 con sư tử đá ở chùa Bà Tấm (Hà
Nội). Tượng sư tử đội tòa sen chùa Hương Lãng (Hưng Yên), chùa Ngô Xá
(Nam Định), chùa Kim Hoàng và chùa Thầy (Hà Tây). Sấu đá chùa Quỳnh Lâm
(Quảng Ninh)...