Phật
Giáo có phải là một Triết Học không?
Được tôn trí trọn
vẹn trong Tam Tang Kinh, Giáo Pháp cao siêu đề cập đến những chân lý và những sự
kiện mà mọi người đều có thể trắc nghiệm và kiểm chứng xuyên qua kinh nghiệm bản
thân, Phật Giáo không hề liên quan đến những lý thuyết suông hay những không luận
có thể được chấp nhận ngày hôm nay là chân lý thâm diệu mà qua ngày sau thì bị
loại bỏ như một lầm lẫn. Đức Phật không truyền giạy một lý thuyết triết học
cách mạng, cũng không có ý định sáng tạo một nền khoa học vật lý mới. Bằng những
lời lẽ rõ ràng, không thể lầm lẫn, Đức Phật giải thích những gì ở bên trong và
những gì ở bên ngoài ta, có liên quan đến sự giải thoát, vượt ra khỏi mọi hình
thức khổ đau của đời sống và Ngài vạch ra Con Đường.
Đức Phật cũng
không truyền dạy tất cả những điều mà Ngài biết. Ngày kia, trong cụm rừng nọ, Đức
Phật bốc lên một nắm lá và dạy:
"Nầy các Tỳ
Khưu, những điều mà Như Lai dạy các con có thể sánh với nắm lá này, còn những
điều mà Như Lai không dạy cũng như tất cả lá trong rừng [1]."
Đức Phật chỉ dạy
những điều mà Ngài xét là cần thiết để gội rửa, thanh lọc tâm, và không bao giờ
bàn đến các vấn đề không liên quan đến nhiệm vụ cao cả của Ngài. Mặc dầu vậy,
trên nhiều điểm, Ngài đã đi trước các học giả và các nhà khoa học hiện đại.
Heraclitus (500
năm trước D.L) tin rằng tất cả đều trôi chảy (pante rhei) và vũ trụ luôn luôn
đang trở thành. Ông dạy rằng không có cái chi trường tồn, mọi vật đều đang trở
thành cái gì khác. Chính ông đã thốt ra câu nói trứ danh: "Không thể bước
hai lần lên cùng môt chỗ trên dòng suối". Pythagore (532 trước D.L) dạy
thuyết chuyển sinh linh hồn. Descartes (1596-1650) chủ trương cần phải quan sát
mọi hiện tượng trên nền tảng của sự hoài nghi hợp lý. Spinoza (1632-1677) vừa
chấp nhận có thực thể trường tồn vừa lập luận rằng tất cả những hình thức tồn tại
đều tạm bợ nhất thời. Theo triết gia nầy, muốn diệt trừ đau khổ phải tìm ra một
nguồn kiến thức không đổi thay, không xê dịch, trước sau như một, trường tồn, vĩnh
cửu. Berkeley (1685-1776) cho rằng cái được gọi nguyên tử chỉ là một giả định của
siêu hình học. Hume (1711-1776) phân tách phần tâm linh của con người và kết luận
rằng đó chỉ là những trạng thái tinh thần luôn luôn biến chuyển. Theo Hegel
(1770-1831): "toàn thể hiện tượng là sự đang trở thành". Schopenhauer
(1788-1860), trong quyển "Thế Gian Xem Như Ý Chí và Tư Tưởng" diễn tả
chân lý về sự đau khổ và nguồn gốc của nó theo lối Tây Phương. Henri Bergson
(1859-1941) chủ trương thuyết vô thường và nhấn mạnh giá trị của trực giác.
William James (1842-1910) đề cập đến luồng tâm như một dòng nước và phủ nhận một
linh hồn trường cửu.
Trên 2500 năm về
trước Đức Phật đã dạy những chân lý Vô thường (anicca), Khổ
(dukkha) và Vô ngã (anatta).
Giáo huấn mà Đức
Phật truyền dạy, dầu có tánh cách luân lý hay triết lý, là để học hỏi, thực
hành, và trên tất cả, là để chứng ngộ bằng trí tuệ trực giác: "Giáo Pháp
như chiếc bè đưa ta qua đại dương của cuộc sống [2]".
Vậy, một cách
chính xác, Phật Giáo không phải là một triết học vì Phật Giáo không phải chỉ
là: "Sự yêu chuộng trí tuệ, lòng ham thích thúc đẩy đi tìm trí tuệ"
(Webster's Dictionary). Phật Giáo cũng không phải là "một lối giải thích
căn cứ trên lý thuyết, cái không bao giờ cũng được biết (như trong siêu hình học)
hay cái được biết không rành mạch (như trong triết học, luân lý hay chính trị)"
[3].
Nếu hiểu triết
học là "nghiên cứu, học hỏi, không phải chỉ một vài sự kiện riêng biệt mà
đặc tính căn bản của thế gian trong đó ta đang sống và cuộc sống đáng cho ta sống
trong thế gian nầy" [4] thì Phật Giáo có thể gần với triết học, nhưng Phật
Giáo hàm xúc hơn nhiều [5].
Triết học đại để
quan tâm đến sự hiểu biết và không chú ý đến phần thực hành, trong khi đó Phật
Giáo đặc biệt đặt trong tâm trên phần thực hành và chứng ngộ.
Phật
Giáo có phải là một Tôn Giáo không?
Giáo sư Rhys
Davids viết: "Religion (tôn giáo) là gì? Như người ta biết rõ, danh từ
'Religion' (tôn giáo) không có trong những sinh ngữ không liên quan đến tiếng
Anh và căn nguyên của chữ nầy vẫn còn bất định. Trong một đoạn, Ciceron phân
tách danh từ nầy làm hai phần, dẫn xuất từ' 're' và 'logo' và định nghĩa
'religion' (tôn giáo) là sự lập lại nhiều lần những câu kinh, câu chú. Một lối
giải thích khác, dẫn suất từ 're' và 'logo' chủ trương rằng ý nghĩa đầu tiên là
liên kết, trói buộc, là sự hàn gắn, dính liền (chắc chắn đó là sự nối liền với
Thần Linh). Lối giải thích thứ ba, dẫn xuất từ 'lex', là sự ẩn náu trong luật
pháp, là sự thận trọng đặt tâm linh vào khuôn khổ [6]".
Theo lối định
nghĩa thông thường, một cách chính xác, Phật Giáo không phải là một tôn giáo
(religion) bởi vì Phật Giáo không phải là "một hệ thống tín ngưỡng và tôn
sùng lễ bái", trung thành với một thần linh siêu nhiên.
Phật Giáo không
đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng suông không
thể có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sự hiểu biết.
Trước khi đắc
Quả Tu-Đà-Hườn (Dự Lưu), người Phật tử lắm lúc còn hoài nghi Đức Phật, hoặc
Giáo Pháp hoặc Tăng đoàn -- gọi ching là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Đến khi
thành đạt Đạo Quả cao thượng ấy rồi thì mọi hình thức hoài nghi hoàn toàn chấm
dức và hành giả mới thật sự bước theo chân Đức Phật [7].
Niềm tin mà người
Phật Tử đặt nơi Đức Phật cũng giống như niềm tin mà bệnh nhân đặt nơi một lương
y trứ danh hay của trò đặt nơi thầy. Mặc dầu tìm nương tựa nơi Đức Phật và tôn
trọng Ngài là vị hướng đạo vô thượng, là thầy dắt dẫn trên Con Đường Trong Sạch
(Thanh Tịnh Đạo), người Phật Tử không quy phục mù quáng như kẻ nô lệ, không tin
rằng chỉ quy y Tam Bảo hay chỉ có đức tin suông nơi Tam Bảo mà mình có thể trở
nên trong sạch. Không ai, dầu là Đức Phật đi nữa, có đủ quyền lực để gội rửa bợn
nhơ của người khác. Nói một cách chính xác, không ai có thể rửa sạch, cũng
không ai có thể làm hoen ố người khác. Đức Phật là vị Tôn Sư có thể giúp đỡ bằng
cách vạch ra con đường, nhưng chính ta phải lãnh lấy nhiệm vụ gội rửa thân tâm
của chúng ta.
Trong kinh Pháp
Cú, Đức Phật có dạy:
"Chỉ có ta
làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.
Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.
Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch". -- (Pháp Cú, 145)
Người Phật Tử
không làm nô lệ cho một quyển sách hay một cá nhân, cũng không hy sinh tự do tư
tưởng của mình khi bước theo dấu chân của Đức Phật. Người Phật Tử hoàn toàn tự
do thực hiện ý chí, mở mang kiến thức và phát triển trí tuệ cho đến ngày chính
mình đắc quả Giác Ngộ, bởi vì khả năng được giác ngộ nằm bên trong
tất cả mọi chúng sanh.
Lẽ dĩ nhiên,
người Phật Tử nhắc lại Phật ngôn như những chân lý bất di dịch, nhưng chính Đức
Phật dạy phải nên luôn luôn suy gẫm, không nên nhắm mắt tin càng.
Sự chứng ngộ có
thể có trong hiện tại không phải là tiêu chuẩn chân lý duy nhất trong Phật
Giáo. Điểm then chốt là Chánh Kiến (samma-ditthi), sự hiểu biết thuần
lý. Đức Phật khuyên dạy người đi tìm chân lý không nên chấp nhận điều gì chỉ vì
một người đáng tin cậy đã nói như vậy mà phải suy luận kỹ càng và thận trọng
xét đoán để biết rõ điều nào là đúng, điều nào sai.
Ngày nọ, dân xứ
Kesaputta, thường được gọi là người Kalama, bạch với Đức Phật rằng có nhiều vị
tu sĩ và nhiều Bà La Môn đến đây giảng đạo. Người nào cũng khuyến dụ dân chúng
chỉ nên tin giáo lý của mình, không nên tin lời dạy của các vị tu sĩ khác. Rốt
cùng, người dân không còn biết tin ai.
"Đúng như
vậy, nầy hỡi người Kalama, các con hoài nghi là phải, các con ngờ vực là phải.
Trong trường hợp khả nghi thì sự ngờ vực phát sanh".
Đức Phật dạy
như vậy và khuyên nhủ người Kalama như sau -- và đây là những lời khuyên mà người
theo chủ nghĩa duy lý hiện đại có thể áp dụng giống như các vị đạo sĩ hoài nghi
thời xưa:
"Hãy đến
đây, người Kalama! Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại (tỷ như nghĩ
rằng ta đã nghe điều nầy từ lâu). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ
phong truyền lại như thế (tỷ như nghĩ rằng điều nầy đã được truyền lại từ bao
nhiêu thế hệ). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì có lời đồn đãi như vậy (tỷ
như tin lời người khác mà không suy xét). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều
ấy đã được ghi trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ức
đoán như vậy. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình suy diễn như vậy. Không
nên chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy
hợp với thành kiến của mình. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình
như có thể chấp nhận được (tỷ như nghĩ rằng điều nầy phải được chấp nhận).
Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra điều nầy ta đã được
kính trọng từ trước (và như vậy, lời nói phải được chấp nhận). [8]
" Tuy
nhiên, khi tự các con hiểu rõ rằng -- những điều nầy không hợp luân lý, những
điều nầy đáng được khiển trách, những điều nầy bị các bậc thiện trí thức cấm
đoán, nếu thực hiện những điều nầy sẽ bị phá sản và phiền muộn -- thì hẳn các
con phải từ bỏ, không nên làm điều ấy.
" Khi tự
các con hiểu rõ rằng -- những điều nầy hợp luân lý, những điều nầy không đáng bị
khiển trách , những điều nầy được các bậc thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện
những điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc -- thì hẳn các con phải hành động đúng
như vậy". [9]
Phật ngôn nầy
được dạy trên 2500 năm trước đây, nhưng vẫn còn mãnh lực và hiệu năng cho đến
thời đại văn minh của thế kỷ hai mươi. Đức Phật dạy các đệ tử nên tìm chân lý,
chớ không nên chỉ nghe qua là tin liền, dù người nói có nhiều uy tín đi nữa.
Về sau, Kinh
Jnanasara-samuccaya lặp lại lời khuyên nầy với những lời lẽ khác và cho một thí
dụ quen thuộc với đời sống hàng ngày:
"Tapac
chedac ca nikasat svarnam iva panditaih
Parikshhya blikshavo grahyam madvaco na tu gauravat".
"Cũng như
người thợ bạc sáng suốt thử vàng bằng cách đốt lên, cắt và cọ xát trên hòn đá để
thử vàng,
Cùng thế ấy, các con nên chấp nhận những lời của Như Lai sau khi thận trọng xét
đoán, chớ không phải chỉ vì tôn kính Như Lai".
Bây giờ, đã chấp
nhận rằng không có đức tin mù quáng trong Phật Giáo, vậy có hay không một hình
thức tôn thờ hay lễ bái tượng Phật hay những thần tượng tương tự?
Người Phật Tử
không cầu xin một ân huệ vật chất hay tinh thần nào khi đảnh lễ tượng Phật, mà
chỉ bày tỏ lòng tôn kính ngưỡng mộ của mình đến lý tưởng siêu việt mà bức tượng
tiêu biểu. Người Phật tử quỳ trước tượng Phật, dâng bông và dâng hương, không
phải dâng đến bức tượng bằng đá, bằng gỗ, hay bằng giấy, mà là đến Đức Phật mà
bức tượng là tượng trưng Ngài.
Dâng bông, quỳ
lạy, là biểu hiện ra bên ngoài niềm tri ân vô hạn sâu kín trong lòng. Cùng lúc ấy
người Phật tử suy gẫm về hồng đức của Đức Thế Tôn và tánh cách vô thường của vạn
pháp, xuyên qua những cánh hoa sớm nở tối tàn. Người Phật tử hiểu biết tạo cho
mình cảm tưởng đang tôn kính quỳ trước mặt Đức Phật và nhờ đó phát sanh nguồn cảm
hứng thúc giục mình noi gương lành trong sạch của Ngài.
Đề cập đến các
pho tượng triết gia trứ danh, bá tước Kaiserling, viết: "Trên thế gian này
tôi không biết còn cái gì vĩ đại hơn là chân dung của Đức Phật. Đây là sự thể
cách hóa toàn hảo một giá trị tinh thần trong thế gian hữu hình".
Người Phật tử cũng
đảnh lễ cây Bồ Đề, nhưng không phải để tỏ lòng tôn sùng thờ phượng cái cây, mà
xem đó là chỉ tượng trưng của sự giác ngộ. Dầu có nhiều nghi thức lễ bái trong
các buổi lễ, người tín đồ Phật Giáo không tôn sùng Đức Phật như một thần linh.
Tượng Phật, cây
Bồ Đề và các hình thức lễ bái không phải tuyệt đối cần thiết, nhưng rất hữu
ích, vì giúp người hành lễ tập trung tư tưởng vào đối tượng trong sạch. Người
trí thức thuần thục có thể khỏi phải nhờ đến những phương tiện ấy để gom tâm
quán tưởng và hình dung Đức Phật.
Người Phật tử lễ
bái Đức Phật để bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ của mình đối với Ngài, nhưng điều
Đức Phật mong muốn không phải là người tín đồ phải phục tùng vâng lời, mà
nghiêm chỉnh thực hành giáo huấn của Ngài.
Trước giờ Đại
Niết Bàn của Đức Phật, nhiều vị đệ tử đến đảnh lễ Ngài. Nhưng có một vị không đến,
ở luôn trong tư thất, chuyên chú hành thiền. Khi câu chuyện được bạch lại Đức
Phật, Ngài cho vời vị tỳ khưu đến và hỏi lý do về sự vắng mặt này. Vị tỳ khưu bạch
rằng:
"Bạch hóa
Đức Thế Tôn, con được biết rằng Đức Thế Tôn sẽ nhập diệt trong ba tháng nữa và
con nghĩ rằng hình thức tôn sùng Ngài tốt đẹp nhất là đắc Quả A La Hán trước
ngày ấy".
Đức Phật ngợi
khen thái độ cao quý của nhà sư chân thành và cần mẫn như sau:
"Lành
thay! Lành thay! Ai thương Như Lai, hãy cố gắng noi gương vị tỳ khưu nầy. Người
tôn kính Như Lai nhất là người thực hành đúng Giáo Huấn của Như Lai nhất"
[10].
Trong một dịp
khác Đức Phật dạy:
"Người nào
thấy Giáo Pháp (Dhamma) là thấy Như Lai". [11]
Một đặc điểm
khác nên được ghi nhận trong nghi lễ tụng niệm Phật Giáo: câu kinh không phải
là lời thỉnh nguyện, cũng không phải là lời cầu xin chuyển đạt một nguyện vọng.
Dầu ta có bỏ hết thì giờ để cầu xin cũng không được gì. Đức Phật không khi nào
và không thể nào ban bố những ân huệ cho người cầu nguyện. Để được cứu rỗi người
Phật tử không nên cầu nguyện mà phải nhận lãnh trách nhiệm, cố gắng trau giồi đức
hạnh, kiên trì tu tập để tự thanh lọc và thành tựu giải thoát. Không nên lệ thuộc
người khác mà phải nương nhờ nơi mình, tự mình cố gắng. Đức Phật dạy:
"Tumhechi
kiccam atappam akkhatar tathagata"
"Các con phải cố gắng, các đấng Như Lai chỉ là những vị thầy" [12].
Chẳng những cầu
nguyện, van xin, là vô ích mà đó còn là thái độ nô lệ tinh thần. Thay vì đọc
kinh cầu nguyện [13], Đức Phật khuyên nên cố gắng hành thiền để ghép mình vào kỷ
luật, tự kiểm soát, tự thanh lọc tâm, và giác ngộ. Thiền tập là liều thuốc bổ
cho cả tâm lẫn trí.
Trong Phật Giáo
không có Thần Linh vạn năng, bắt buộc tín đồ phải sợ hãi cúi đầu vâng lệnh. Phật
Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một oai lực siêu thế, quan niệm như chúng sanh toàn
năng hay có năng lực vô cùng tận. Không có tánh cách thần khải, không có người
truyền đạt tin tức và những lời sám của một Thần Linh từ đâu trên cao ban xuống
đến cho con người. Do đó người Phật Tử không quỳ lụy phục tùng một oai lực siêu
nhiên cầm quyền thưởng phạt và kiểm soát định mạng. Bởi vì không tin nơi thiên
khải Thần Linh. Phật Giáo không đòi hỏi độc quyền nắm chân lý và không bài xích
bất cứ tôn giáo nào khác. "Tánh thiên chấp là kẻ thù tệ hại nhất của tôn
giáo".
Với đức tánh rộng
lượng khoan dung của Ngài, Đức Phật hằng khuyên hàng môn đệ không nên giận dữ,
bất mãn, hay không vui lòng , nếu có ai nói xấu Ngài, Giáo Pháp của Ngài hay
Giáo Hội mà Ngài sáng lập. Đức Phật dạy:
"Nếu các
con giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, chẳng những các con tự đặt mình vào
chỗ hiểm nguy có thể mất cả nền tảng đạo đức tinh thần mà các con còn không thể
xét đoán đúng mức lời chỉ trích có giá trị hay không".
Quả thật là
sáng suốt! Để trả lời những điều chỉ trích bất công, vô căn cứ, Đức Phật dạy:
"Cũng như
người kia ngửa mặt phun nước miếng lên trời. Nước miếng không hẳn làm dơ trời,
mà chỉ rơi xuống người ấy".
Phật Giáo không
ban hành những tín điều buộc người tín đồ phải nhắm mắt tin theo, không có giáo
điều buộc phải chấp nhận trước khi suy nghĩ, không có nghi thức dị đoan vô lý
và lễ tiết bắt buộc phải thực hành, không có hiến tế và không có ép xác khổ hạnh
để gội rửa tâm.
Như vậy, một
cách chính xác, không thể gọi Phật Giáo là một tôn giáo bởi vì đây không phải
là một hệ thống tín ngưỡng và lễ bái. Phật Giáo cũng không phải là hành động
hay hình thức biểu hiện ra ngoài tỏ rằng con người chấp nhận sự hiện hữu của một
hay nhiều Thần Linh có năng lực chi phối định mạng mình và mình có phận sự vâng
lệnh, phục vụ và tôn sùng
Karl Marx nói:
"Tôn giáo là linh hồn của những điều kiện không có linh hồn, là trái tim của
thế gian không có tim, là nha phiến của dân chúng".
Phật Giáo không
phải là một tôn giáo như vậy, bởi vì những quốc gia Phật Giáo đã vươn mình trưởng
thành từ trong tổ ấm Phật Giáo, và những tiến bộ văn hóa hiện đại của các quốc
gia ấy phần lớn là do ảnh hưởng của giáo lý nhà Phật.
Dầu sao, nếu hiểu
rằng tôn giáo là giáo lý nhìn vào đời sống sâu hơn là lớp vỏ bên ngoài, giáo lý
nhìn ngay vào bên trong đời sống, thay vì chỉ nhìn trên mặt, giáo lý cung hiến
cho con người một thái độ sống phù hợp với "cái nhìn sâu xa ấy, giáo lý
giúp cho những ai cố gắng, có thể đối phó mạnh mẽ với kiếp sinh tồn và trực diện
cái chết một cách b́nh tĩnh và yên lành [14]", hay một hệ thống giúp giải
thoát ra khỏi những h́nh thức đau khổ của đời sống, thì chắc chắn Phật Giáo là
tôn giáo của các tôn giáo.
Phật
Giáo và luân lý
Giáo lý của Đức
Phật có phần luân lý tuyệt hảo dành cho cả bậc xuất gia lẫn hàng cư sĩ. Tuy
nhiên, Phật giáo không phải chỉ là một hệ thống giáo huấn về luân lý thông thường.
Giới (Sila), hay luân lý, chỉ là giai đoạn sơ
khởi, là phương tiện nhằm đưa đến mục tiêu, chớ không phải chính nó là mục
tiêu. Mặc dầu "giới" là tuyệt đối cần thiết, nếp sống đạo hạnh riêng
rẽ không thể dẫn đến giải thoát hay hoàn toàn trong sạch. Vượt lên khỏi giới là
Trí tuệ (panna).
Nền tảng của Phật
Giáo là Giới. Tuệ là đỉnh tối cao. Giới với Tuệ đối với hành giả như cặp cánh đối
với loài chim. Với người, trí tuệ như mắt, giới như chân. Một trong những danh
hiệu của Đức Phật là "Vijjacarana sampano" - Minh Hạnh Túc - người đầy
đủ trí tuệ và đạo hạnh.
Trong Tứ Diệu Đế,
nền tảng của Phật Giáo, ba đế đầu tiên là phần triết lý, đế cuối cùng là phần
luân lý căn cứ trên triết lý ấy.
Luân lý Phật
Giáo không đặt nền tảng trên những lời dạy thần khải khả nghi, do một thần linh
truyền lại dưới hình thức sám truyền, cũng không phải là sáng tác khéo léo của
một bộ óc kỹ xảo, mà là những quy tắc hợp lý và thực tiễn, căn cứ trên những sự
kiện có thể kiểm chứng và trong kinh nghiệm cá nhân. Theo giáo sư Max Muller,
quy tắc Phật Giáo là một trong những quy tắc toàn hảo nhất trên thế gian.
Giáo sư Rhys
Davids nói: "Dầu là Phật tử hay không Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống
tôn giáo lớn trên thế gian, và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo
nào có cái gì cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát Chánh Đạo của Đức Phật. Tôi chỉ còn
có một việc làm là thu xếp nếp sống cho phù hợp với con đường ấy".
Theo Phật Giáo,
có những hành động tốt và sấu, có những hành động không tốt cũng không xấu, và
những hành động có khuynh hướng chấm dứt mọi hành động. Hành động tốt rất cần
thiết để giải thoát, nhưng một khi thành tựu mục tiêu tối thượng rồi thì hành
giả đã vượt ra ngoài cái tốt và cái xấu.
Đức Phật dạy
[15]:
"Những
pháp chân chánh (dhamma), hay thiện pháp, con cũng nên từ bỏ. Càng phải loại bỏ
hơn nữa, những pháp không chân chánh (adhamma), hay bất thiện pháp".
Hành động liên
quan đến tham (lobha), sân (dosa) và si (moha) là bất thiện pháp. Hành động
liên quan đến không tham (alobha), không sân (adosa) và trí tuệ (panna) là thiện
pháp.
Hành động của một
vị A La Hán, người đã tận diệt mọi ô nhiễm, không còn liên quan đến luân lý, bởi
vì Ngài đã vượt ra ngoài cái tốt và cái xấu. Như vậy không có nghĩa là Ngài thụ
động. Một vị A La Hán vẫn tích cực họat động. Nhưng hành động của Ngài hoàn
toàn vị tha, hướng về sự trợ giúp kẻ khác đi trên con đường mà chính Ngài đã trải
qua. Hành động ấy không có khả năng sáng tạo và khác với hành động của người
thường, không gây phản ứng, không tạo nghiệp. Phạn ngữ gọi hành động như vậy là
Kiriya (cơ năng, hay hành). Đã là vàng y thì không còn làm cho nó "y"
hơn nữa.
Những trạng
thái tâm (tâm sở) của bốn loại tâm siêu thế: Sotapatti (Tu Đà Hườn, Dự Lưu),
Sakadagami (Tư Đà Hàm, Nhất Lai), Anagami (A Na Hàm, Bất Lai) và Arahatta (A La
Hán), mặc dầu là thiện (kusala) không có khuynh hướng tạo nghiệp mới, trái lại,
có chiều hướng chấm dứt dần dần dòng nghiệp. Trong các loại tâm siêu thế, yếu tố
trí tuệ (panna) là quan trọng hơn tất cả, và trí tuệ có chiều hướng tiêu diệt
nghiệp căn. Trong các loại tâm tại thế, tác ý (cetana) - có chiều hướng tạo
nghiệp - là quan trọng.
Vậy, theo Phật
Giáo, tiêu chuẩn của luân lý là gì?
Câu giải đáp nằm
trong lời Đức Phật dạy Rahula (La Hầu La):
"Nếu có điều
nào con muốn làm, nầy hỡi Rahula (La Hầu La), hãy nghĩ như vầy: Điều này có hại
cho ta hay cho kẻ khác hay điều nầy có hại cho kẻ khác và cho ta. Vậy, đó là một
hành động xấu, sẽ đem lại sự đau khổ. Con phải hết sức cố gắng tránh làm điều ấy".
"Nếu có điều
nào con muốn làm, nầy hỡi Rahula (La Hầu La), hãy nghĩ như vầy: Điều nầy không
có hại cho ta, không có hại cho ai khác, hay điều nầy không có hại cho ai khác
và cho ta. Vậy, đó là hành động tốt, sẽ đem lại hạnh phúc. Hành động ấy, con phải
làm, và lặp đi lặp lại nhiều lần [16]".
Trong vấn đề luân
lý, người Phật tử phải luôn luôn nghĩ đến mình và kẻ khác, luôn cả loài thú.
Trong Kinh Từ
Bi (Kanariya Metta Sutta) Đức Phật dạy:
"Cũng như
người mẹ hiền hết lòng bảo bọc đứa con duy nhất của mình, dầu có phải hiểm nguy
đến tánh mạng đi nữa, cùng thế ấy, ta hãy luyện tâm Từ vô lượng vô biên, bao
trùm tất cả chúng sanh".
Kinh Pháp Cú
ghi:
"Tất cả đều
sợ hình phạt. Tất cả đều quý trọng đời sống. Hãy lấy bụng ta suy bụng người,
không nên sát hại, cũng không nên làm tổn thương. [17]"
Muốn hiểu rõ nền
luân lý đặc biệt cao thượng của người Phật tử thuần thành, ta nên đọc cẩn thận
các quyển kinh sau đây: Dhammapada, Sigalovada Sutta, Vyagghapajja Sutta,
Mangala Sutta, Metta Sutta, Parabhava Sutta, Vasala Sutta, Dhammika Sutta
v.v...
Về phương diện
luân lý, đó là những lời dạy vô cùng cao đẹp, nhưng cũng chỉ là bước đầu, chớ
không phải là mục tiêu của Phật Giáo.
Theo một lối hiểu,
Phật Giáo không phải là một triết lý. Theo một lối hiểu khác, Phật Giáo là triết
lý của các triết lý. Theo một lối hiểu, Phật Giáo không phải là một tôn giáo.
Theo một lối hiểu khác, Phật Giáo là tôn giáo của các tôn giáo.
Phật
giáo là gì?
Phật Giáo không
phải là một con đường siêu hình, cũng không phải là một con đường nghi thức.
Phật Giáo không
phải là một chủ nghĩa hoài nghi, cũng không độc đoán.
Phật Giáo không
chủ trương rằng đời sống là trường tồn vĩnh cửu, vô thủy vô chung (thường kiến);
cũng không chủ trương rằng sau kiếp sống nầy không còn gì nữa, chết là hết (đoạn
kiến).
Phật Giáo không
dạy lối sống khổ hạnh, cũng không giáo truyền lối sống lợi dưỡng.
Phật Giáo không
bi quan, không lạc quan, nhưng thực tiễn.
Phật Giáo không
tuyệt đối tại thế, cũng không hoàn toàn siêu thế.
Phật Giáo là
con đường giác ngộ duy nhất.
Danh từ Phạn Ngữ
gọi Phật Pháp là Dhamma. Đúng căn nguyên, Dhamma có nghĩa là nâng đỡ,
hay giữ lại (nâng đỡ người hành động đúng theo quy tắc, hay giữ lại, không để
cho người hành động đúng theo quy tắc phải rơi vào những trạng thái đau khổ).
Dhamma, Giáo
Pháp, là cái gì thật sự là vậy, là thực tướng, Dhamma là giáo lý của thực tế.
Dhamma là phương tiện để giải thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau. Dhamma chính
là sự giải thoát.
Dầu chư Phật có
ra đời hay không, Dhamma (Giáo Pháp) vẫn tồn tại vĩnh cửu. Dhamma (Giáo Pháp)
luôn luôn bị che lấp trước cặp mắt vô minh của con người, cho đến lúc có một vị
Phật ra đời, chứng ngộ và truyền bá lại cho thế gian.
"Dầu chư
Phật có thị hiện trên thế gian hay không, nầy các Tỳ Khưu, có một sự kiện, một
nguyên tắc nhất định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo đều
Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có linh hồn trường cửu (Vô
ngã, Anatta). Như Lai đã chứng ngộ và thấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá,
truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các
vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường, khổ và vô ngã [18]".
Trong bộ
Majjhima Nikaya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật dạy:
"Như Lai
chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ [19] ".
Đó là giáo lý của
thực tế.
Kinh Udana dạy:
"Nầy hỡi Tỳ
Khưu, cũng như nước của đại dương hùng dũng chỉ có một vị là vị mặn của muối,
Giáo pháp chỉ có một vị là Giải Thoát (Vimutti) [20]".
Đó là phương tiện
giải thoát.
Giáo pháp cao
thượng không phải là cái gì ở ngoài ta, mà hoàn toàn tùy thuộc nơi ta và chỉ do
ta chứng ngộ. Do đó Đức Phật dạy:
"Attadipa
viharatha attapatisarana".
"Hãy ẩn náu nơi chính ta như một hải đảo, xem chính ta là chỗ nương tựa".
[21]
Phạm Kim Khánh dịch Việt
(Trích "Đức Phật và Phật Pháp", ấn bản 1999)
Chú thích:
[1] Samyutta
Nikaya, Tương Ưng, tập 5, trang 437-438. Kindred Sayings, Trang 370.
[2] Majjhima
Nikaya, Trung Bộ, số 22.
[3] William
Durrant, The History of Philosophy, trang 2.
[4] Webb,
History of Philosophy, trang 2.
[5] Một triết học
hiểu như một hệ thống tri thức luận đem lại lời giải đáp đầy đủ cho câu hỏi: đời
sống là gì? Phật Giáo không phải vậy. (Dr.Dahlke, Buddhism, trang 25).
[6] Dr. Dahlke,
trang 1.
[7] Người Phật
tử thường (còn phàm nhân) vẫn bước theo chân Đức Phật, nhưng chưa thật sự chứng
ngộ Giáo Pháp.
[8] Phần giải
thích nằm trong dấu ngoặc trên đây được trình bầy hợp theo bản chú giải và chú
giải các bản chú giải. Nguyên văn tiếng Pali là: "Etha tumhe Kalama. Ma
anussavena, ma paramparaya, ma itikiraya, ma pitasampadanena, ma takkahetu, ma
nayahetu, ma akara-parivitakkena, ma ditthinijjhanakkhantiya, ma bhabbarupataya,
ma samano no garu ti."
[9] Angutara
Nikaya , Tăng Chi , tập 1, trang 189. Kindred Sayings, phần 1, trang 171-172.
[10] Xem
Buddhist Legends, trang 249-250.
[11] Samyutta
Nikaya, Tương Ưng, tập 3, trang 129.
[12]
Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 276.
[13] "Cầu
nguyện là một hành động mà tôi chân thành thú nhận là tôi không có xu hướng
theo." Canon B.H. Streeter, trong quyển Modern Churchman, tháng 9 năm
1924, trang 347.
"Tôi không
hiểu vì sao người ta vẫn tiếp tục cầu nguyện, ít ra người ta cũng phải biết chắc
rằngcó một lỗ tai đang nghe". Rev.C.Beard, trong quyển Reformation, trang
419.
Sri
Radhakrishnan viết: "Những lời vái van cầu nguyện có tánh cách là một sự
thông cảm riệng tư, một sự mặc cả với thần linh. Đối tượng mà nó tìm là những
tham vọng trần tục đang thiêu đốt ý thúc về bản ngã. Đàng khác, hành thiền là tự
mình sửa đổi lấy mình."
[14] Silacava.
Xem Ceylon Daily News, số đặc biệt Vesak, tháng 4-1939.
[15] Majjhima
Nikaya, Trung Bộ, bài kinh số 22.
[16] Majjhima
Nikaya, Trung Bộ, Rahulovada sutta (Kinh Giáo giới La Hầu La), số 61.
[17]
Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 129.
[18] Anguttara
Nikaya, Tăng Chi, phần 1, trang 286.
[19] Majjhima
Nikaya, Trung Bộ, tập I, trang 140,số 22.
[20] Udana, Tiểu
Bộ, trang 67.
[21] Maha
Parinibbana Sutta, Kinh Đại Niết Bàn, Trường Bộ, Kinh 16.