Cho nên biết rằng chỉ có pháp môn niệm Phật
cầu vãng sanh Tây phương là dễ dàng và phổ cập cho mọi tầng lớp từ kẻ
xuất gia đến người tại gia cư sĩ muốn mong cầu đoạn trừ sanh tử chứng
quả Niết Bàn ở thời đại mạt pháp này. Vậy nên niệm Phật mà chỉ mong
cầu chút ít phước báo ở cõi trời hoặc cõi người; hay niệm Phật mà mong
cầu chuyển thế làm vị cao tăng đều là phí công chưa đúng mức của sự
niệm Phật, mà, cũng không hợp với bản nguyện độ sanh của chư Phật.
Hành giả phải một lòng phát đại hùng tâm; tín, hạnh, nguyện đầy đủ
mong quyết xả bỏ thân ngũ uẩn giả tạm đời này ở thế giới Ta Bà mà
cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc
Hầu hết Bắc Tông Phật giáo bao gồm tu sĩ và cư sĩ hằng ngày đều niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật"
ít nhất là trong lúc chào hỏi gặp nhau. Điều này cho thấy là pháp môn
Tịnh Độ đã ăn sâu vào tư tưởng của người Phật tử. Tuy hầu hết đều biết
niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật" nhưng không biết mục đích của sự niệm Phật nên thường hay rơi vào những trường hợp như sau:
+
Nhiều tín đồ thường xuyên đi chùa lễ Phật, thấy bạn bè niệm Phật, ham
vui tự mình cũng gia nhập theo hàng ngũ để niệm Phật tụng kinh, nhưng
không rõ niệm Phật để làm gì. Tuy rằng sự tu niệm nầy cũng có mang lại
một ít phước đức, nhưng không phải là sự mong cầu Phật đạo.
+
Có người niệm Phật là để cầu cho con cháu sung túc, đoàn tụ gia đình,
làm ăn phát đạt, sức khỏe đầy đủ, buôn bán nhiều lợi lộc, phát tài
trúng số... điều này cũng tốt nhưng không hợp với sự mong cầu giải
thoát.
+
Có người vì đời sống khổ sở, tình cảm đau khổ, buồn chán, gặp điều
không vừa ý, diện mạo xấu xa; phát tâm niệm Phật mong cầu hết khổ đời
nầy, đời sau sanh làm người xinh đẹp, tiền của giàu có không bị người
khinh chê... như vậy không hợp với sự liễu sanh thoát tử của nhà Phật,
và cũng không hợp với bản nguyện của chư Phật ra đời.
+
Lại có người nhận thấy sự đau khổ của cuộc đời mà Phát tâm niệm Phật
để cầu sanh lên các cõi Trời được hưởng phước lạc an vui, niệm như thế
cũng không phải là người chân chánh niệm Phật, chưa đúng với pháp môn
Tịnh Độ.
+
Hoặc có người niệm Phật mong bỏ thân này chuyển lại kiếp sau gặp được
Phật pháp xuất gia tu học, hoằng dương chánh pháp, lợi lạc chúng sanh;
niệm Phật như vậy cũng chưa gọi là đầy đủ trí lực trong lúc niệm Phật.
Vì sao? Vì khi chuyển thế đầu thai, tuy rằng có gặp Phật pháp, xuất gia
tu học, nhưng không chắc chắn là kiếp đó mình có thể chứng được đạo, dù
rằng túc duyên đầy đủ thiện nghiệp có thừa, có thể ngộ được đạo; nhưng
chưa chứng thì con đường sanh tử vẫn còn nên sự mê mờ e rằng khó thoát.
Giống như Giám Không đại sư đời Đường, hoặc Viên Quán đại sư, Pháp Vân
đại sư, Hải Ấn đại sư, Mạt Sơn đại sư, Giới Diễn thiền sư... các vị này
chuyển thế đầu thai kiếp thứ ba phần nhiều đi vào thế tục bỏ mất hạnh
nguyện của kẻ xuất gia, như vậy dần dần sẽ rơi vào mê lộ sanh tử trở
lại, và cơ hội sa đọa vào ba ác đạo khó mà thoát khỏi. Giới Diễn thiền
sư là kiếp trước của Tô Đông Pha; Tô Đông Pha sau khi làm quan chẳng
những đã không tu, không hộ trì chánh pháp mà lại còn hủy báng chống
phá Phật pháp cho đến khi gặp Phật Ấn thiền sư hóa độ cho. Điều này cho
thấy niệm Phật cầu kiếp sau chuyển thế làm người xuất gia không phải là
việc tốt. Nhìn lại thời mạt pháp, chúng ta lại càng không nên phát
nguyện chuyển thế làm người xuất gia tu học; vì rất nhiều tu sĩ hiện tại
chỉ loay hoay trong phần tu phước mà quên đi bản nguyện mong cầu giải
thoát, nên chắc chắn sẽ đi vào mê lộ của sanh tử.
Vậy
chúng ta phải niệm Phật như thế nào mới đúng tinh thần mong cầu của
mình và hợp với bản nguyện của chư Phật xuất thế độ sanh trong mười
phương thế giới ba đời?
Chư
Phật trong mười phương ứng thân nhập thế là vì muốn cho tất các chúng
sanh đi vào đạo quả giải thoát, liễu sanh thoát tử. Bản nguyện này
nói rất rõ trong kinh Pháp Hoa. Chư Phật nhìn thấy chúng sanh sẵn có đầy
đủ các đức tướng Như Lai; nhưng, vì nghiệp duyên trần lao trói buộc
nên mãi chịu sống loạn thác cuồng trong mê lầm ảo ảnh. Khi có được
chút ít thiện duyên phước đức thì sanh lên các cõi Trời hưởng phước,
tuy nhiên khi hết phước thì cũng bị đọa lạc trong vòng ba ác đạo. Nếu
thiện duyên không có, mà ác nghiệp lại nhiều thì con đường ác đạo mở
cửa đón chờ. Cho nên, Thế Tôn muốn cho chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi thật sự phải đoạn trừ sanh tử.
Đoạn trừ sanh tử ấy là chứng quả vị A La hán, nhưng quả vị A La Hán
chỉ có những vị xuất gia mới chứng được, còn lại đa số quần chúng Phật
tử thì lại không đạt được. Đoạn sanh tử thiền gia gọi là kiến tánh
chứng ngộ, nhưng mấy ai mà thiền tọa được chứng ngộ, họa chăng cũng chỉ
dành riêng cho hàng tu sĩ xuất gia mới có đủ công năng thiền tọa đến
chỗ kiến tánh chứng ngộ còn lại đa số quần chúng thì không. Nhìn chung
cũng chỉ rất ít người xuất gia thiền tọa kiến tánh chứng ngộ, mà đa phần
phải nhập thai chuyển thế để tiếp tục tu; nhưng thời mạt pháp, Phật
pháp dần dần đi vào chỗ suy tàn theo định luật tự nhiên: thành, trụ,
hoại, không của vạn pháp. Vậy chuyển thế để tiếp tục tu, con đường
nghịch cảnh khó khăn vạn lần, trăm người chuyển thế một vài người chứng
ngộ. Đa số quần chúng tu tập theo thiền tọa thì nhiều lắm cũng chỉ đạt
được chút ít định tâm; nhưng định tâm thì giống như lấy đá đè cỏ, cỏ
tuy không mọc nhưng cội rễ vẫn còn, gặp duyên tảng đá bị lăn đi nơi
khác thì cỏ liền mọc trở lại. Cho nên biết rằng chỉ có pháp môn
niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương là dễ dàng và phổ cập cho mọi tầng
lớp từ kẻ xuất gia đến người tại gia cư sĩ muốn mong cầu đoạn trừ sanh
tử chứng quả Niết Bàn ở thời đại mạt pháp này. Vậy nên niệm
Phật mà chỉ mong cầu chút ít phước báo ở cõi trời hoặc cõi người; hay
niệm Phật mà mong cầu chuyển thế làm vị cao tăng đều là phí công chưa
đúng mức của sự niệm Phật, mà, cũng không hợp với bản nguyện độ sanh
của chư Phật. Hành giả phải một lòng phát đại hùng tâm; tín, hạnh,
nguyện đầy đủ mong quyết xả bỏ thân ngũ uẩn giả tạm đời này ở thế
giới Ta Bà mà cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhập vào đại chúng bất
thối Bồ Tát; việc này rất phù hợp với bản nguyện của chư Phật xuất thế
độ sanh. Khi đã nhập vào đại chúng bất thối Bồ Tát thì con đường chứng
quả Phật đạo không còn xa, lúc ấy hành giả cũng có thể ứng thân trở
lại thế giới Ta Bà mà không sợ bị ác duyên làm mê muội.
Như
vậy, hiện tại là đến thời kỳ mạt pháp, chướng duyên nghịch cảnh trùng
trùng, ác hữu ác nhân đầy dẫy, kẻ tu thì nhiều, người chứng đạt thì quá
ít; phần nhiều xuôi theo thế tục, hoặc họa lắm thì chỉ hiểu trên văn
chương chữ nghĩa; hay nói đến thiền tọa hình như chỉ còn là phong trào,
còn sự chứng ngộ kể như ánh sáng đom đóm ở giữa đêm đen. Do vậy, đại
chúng đồng tu có tâm mong cầu đoạn sanh tử trong một đời thì không còn
pháp môn tu nào thuận tiện và dễ dàng cho quí vị hơn là pháp môn niệm
Phật cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc gặp Phật Di Đà.
Ấn Quang đại sư, một bậc cao tăng cận đại, là Tổ thứ mười ba của Tịnh Độ Tông ở Trung Hoa có dạy: "Thời
mạt pháp, chúng sanh nghiệp nặng, tâm tạp; nếu ngoài pháp môn niệm Phật
mà tu các pháp môn khác, chỉ gieo được phần trí tuệ, phước đức căn lành
thì có; nhưng phần liễu thoát sanh tử luân hồi trong hiện thế thì
không. Tuy có một vài vị cao đức phi thường, song đó chỉ là những bậc Bồ
Tát hiện thế mà làm mô phạm cho chúng sanh, như kinh Lăng Nghiêm đã
nói. Nhưng các vị ấy cũng chỉ nương theo trình độ chúng sanh mà thị hiện
ngộ đạo chứ không phải chứng đạo. Pháp môn Tịnh Độ thời nay tuy ít
người chứng được niệm Phật tam muội như xưa; nhưng cũng có thể nương
theo nguyện lực của mình và bản nguyện của A Di Đà mà đới nghiệp vãng
sanh về cõi Cực Lạc. Từ đây không còn sanh tử luân hồi, mà lần tu tập
cho đến lúc chứng quả vô sanh."
Sự
thù thắng cao diệu của pháp môn niệm Phật cho quảng đại quần chúng
ngoài sự giới thiệu của đức Thích Ca Mâu Ni, tiếp theo còn có các vị Bồ
Tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sanh về Tây Phương như: Văn
Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; các vị Tổ sư cả thiền lẫn tịnh như:
Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, Ấn
Quang...
Vĩnh
Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì đều là những thiền sư nổi tiếng bên Thiền
Tông sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sanh.
Phải biết pháp môn niệm Phật là nhiệm mầu và hợp cơ với chúng sanh thời
mạt pháp đến dường nào. Quí Tổ sư là bậc thạc đức cao tăng mà còn niệm
Phật mong cầu sanh về Tây Phương huống hồ chi ta là hàng hậu học phước
mỏng tội dày; vả lại, hàng cư sĩ tại gia duyên nghiệp chồng chất mà
không mong hướng về Tây Phương Cực Lạc thì còn đường nào khác để đi?
Trong
kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền, sau khi Bồ Tát Phổ Hiền phát mười đại
nguyện, khuyến phát các vị Bồ Tát từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hướng cho đến Thập Địa đều nên phát nguyện cầu sanh về Tây Phương. Cho
nên biết rằng những ai vì bảo vệ Tông Môn hay có lối nhìn thiên kiến mà
chê hay phê bình pháp môn Tịnh Độ là yếu kém, không tự lực được phải
nhờ tha lực, là môn tu để cho ông già bà cả, cho những người dốt nát ít
học, là Phật Thích Ca không phải do niệm Phật mà thành Phật... là họ
tự khinh chê chính bản thân của họ, hoặc tệ hại hơn, họ đã khinh chê
đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, các vị Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ, Văn Thù,
Phổ Hiền là những vị Tổ của Thiền Tông, hay các vị Thiền sư chính tông
như: Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì... do đây xin nhắc nhở những người
tu thiền, hãy chuyên tâm thiền định cho đến ngày kiến tánh, chứng đạo;
không phải chỉ ở chỗ ngộ đạo; đừng nên tạp niệm để ý phân biệt đó đây
mà rơi vào vòng biên kiến. Đối với hành giả niệm Phật nên vững tâm tiến bước trên đường niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện
vững chắc, mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, đừng bận tâm đối với
ngoại cảnh chung quanh, dầu cho ngoại cảnh ấy là những trường hợp đặc
biệt. Có như vậy thì một hoa sen ở ao Liên Trì nơi cảnh Tây Phương
vừa mọc lên đã ghi sẵn tên riêng của mình để chờ ngày đón rước quí vị.
Thượng Tọa: Thích Phước Nhơn