Muốn thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh
nhân, Bồ Tát, chúng ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn,
một "vô lượng tâm".
A. MỞ ĐỀ
Đứng
về phương diện tuyệt đối, hay chơn như môn, thì tâm của chúng sinh hay
tâm của Phật cũng vẫn là một, không có rộng hẹp, thấp cao, sai khác,
ngăn cách.
Nhưng đứng về phương diện tương đối hay sinh diệt môn,
thì tâm có muôn hình vạn trạn, tùy theo chủng tánh của chúng sinh mà có
cao thấp, rộng hẹp không đồng. Hễ nghĩ đến tham, sân, si, mạn v.v...thì
tâm trở thành nhỏ hẹp, lớn bé, ngàn sai, muôn khác,cũng như cùng một
thứ bột mà do người thợ làm bánh, khéo hay vụng mà có bánh ngon, bánh
dở, bánh tốt, bánh xấu, bánh lạt, bánh mặn v.v...Cho nên Tôn cảnh Lục có
chép: " Tâm tạo chư Phật, tâm tạo chúng sinh, tâm tạo thiên đường, tâm
tạo địa ngục. Tâm vọng động thì ngàn sự sai biệt tranh khởi, tâm bình
thì thế giới thản nhiên, tâm phàm thì ba món độc trói buộc, tâm thánh
thì sáu món thần thông tự tại, tâm không thì nhứt đạo thanh tịnh, tâm
hữu thì vạn cảnh tung hoành. Tự mình đạp mây mà uống nước cam lồ, chẳng
có ai cho mình. Nằm trong lửa hừng mà uống máu mủ cũng tự mình gây nê,
không phải trời sanh ra, cũng không phải do đất mà có ".
Xem thế thì cũng đủ biết tâm là động lực chính để làm cho ta sướng hay khổ, vui hay buồn, trầm luân hay giải thoát.
Vậy
muốn thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh nhân, Bồ
Tát, chúng ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn, một "vô
lượng tâm".
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA TÂM VÔ LƯỢNG
Vô lượng là gì? Vô lượng nghĩa là nhiều, rộng lớn, không thể lường tính được.
Tâm
vô lượng là tâm vô cùng rộng lớn thoát ra khỏi sự ràng buộc của các thứ
phiền não đê hèn của phàm phu, phá vỡ được các thứ quan niệm chấp trước
hẹp hòi của Nhị thừa, là tâm có một vùng thương yêu rộng lớn có thể bao
trùm đến vô lượng chúng sinh, và tìm phương cứu cho tất cả. Vô lượng
tâm cũng có nghĩa là "Đẳng tâm", cái tâm bình đẳng, phổ biến; bình đẳng,
vì tâm này chỉ tự nhiên, không phân biệt so đo thấp cao, hơn kém; phổ
biến, bởi nó trang trải mọi nơi chẳng khu biệt, giới hạn.
Và dĩ
nhiên, nhân nào quả nấy: do thi hành bình đẳng, phổ lợi cho vô lượng
chúng sinh, nên chi tâm này có công năng dẫn sinh vô lượng phước đức,
làm cho sự kiện căn bản để cảm thành vô lượng quả báo tốt đẹp, ấy là quả
vị Bố tát và Phật đà.
Hơn nữa, tâm này không những làm lợi ích
cho vô lượng chúng sinh, dẫn sinh vô lượng phước đức, và tạo thành vô
lượng quả vị tốt đẹp trong một thế giới và trong một đời, mà còn lan
rộng ra đến vô lượng thế giới trong vô lượng kiếp sau này, và tạo thành
vô lượng chư Phật.
Tóm lại, chữ vô lượng ở đây hàm ngiều nghĩa,
vô lượng nhân lành, vô lượng quả đẹp, vô lượng chúng sinh, vô lượng thế
giới, vô lượng đời kiếp, vô lượng chư Phật và Bồ Tát.
II. THÀNH PHẦN VÀ HÀNH TƯỚNG CỦA BỐN MÓN TÂM VÔ LƯỢNG
Tâm vô lượng gồm có bốn phần là: bi vô lượng, từ vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô lượng.
1. Bi vô lượng
Bi
là lòng thường xót rộng lớn trước những nỗi đau khổ của chúng sinh và
quyết tâm làm cho dứt trừ những đau khổ ấy. Nhưng chúng ta đã học trong
khóa thứ ba nói về Tứ đế, cái khổ của chúng sinh thật là mênh mông, rộng
lớn không thể nói hêt. Nó bao trùm cả nhân lẫn quả, cả thời gian lẫn
không gian, cả phàm lẫn thánh, thật đúng là vô lượng khổ.
Khổ nằm
trong nhân. Trong các kinh điển thường có câu: "Bồ Tát sợ nhân, chúng
sinh sợ quả". Chúng sinh vì không sáng suốt cho nên chỉ khi nào quả khổ
hiện ra mới lo sợ, chứ trong khi đang gây nhân thì lại không nhận thấy,
mà vẫn cứ thản nhiên như không. Họ đang sống trong cảnh khổ mà họ không
biết, nhiều khi lại là cho vui. Họ hoan hô tán thán và khuyến khích nhau
gây khổ mà cứ tưởng là vui, như những đứa trẻ quẹt diêm quăng lên mái
nhà lá, rồi vỗ tay reo mứng với nhau. Vì thiếu sáng suốt cho nên đôi khi
họ gây khổ để cứu khổ, chẳng khác gì làm cho đỡ khát bằng cách uống
nước mặn.
Khổ nằm trong quả. Đã gây nhân quả, thì tất phải chịu
quả khổ, đó là lẽ tất nhiên. Có ai trồng khoai mà được đậu bao giờ? Thế
mà người đời ít ai chịu công nhận như thế. Người ta oán trời trách đất,
rren khóc thảm thiết, làm cho cõi đời đã đen tối lại càng đen tối thêm,
cuộc sống đã khổ sở lại càng khổ sở thâm.
Khổ sở bao tùm cả thời
gian. Từ vô thỉ đến nay, cái khổ chưa bao giờ dứt, mà cứ trông thêm lên
mãi. Nó gây nhân rồi lại kết quả, kết quả rồi lai gây nhân, cứ thé tiếp
tục mãi trong một vòng lẩn quẩn, nmhư bánh xe lăn tròn trên đường thiên
lý, không bao giờ dừng nghỉ.
Khổ bao trùm cả không gian. Cái khổ
không có phương sở và quốc độ; ở đâu có vô minh thì ở đó có khổ ! Mà vô
minh thì như một tấm màn vô tận, bao trùm không chỉ một thế giới khác
nữa. Khoảng không gian mênh mông vô tận như thế nào, thì nỗi khổ đau
cũng mênh mông vô tận như thế ấy:
Khổ chi phối cả phàm lẫn thánh.
Chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, sauc sanh đã đành là khổ vo cùng, loài
người vì say đắm nguc dục lạc, và tham sân, si chi phối, nên cũng quay
cuồng lặn hụp trong biển khổ như còn chư thiên mặc dù không khổ như
người, nhưng cũng không tránh được cái khổ vì ngũ suy tướng hiện. Cho
đến các hàng thánh như Thanh Van, Duyên giác, vì còn mê pháp, trụ trước
Niết Bàn, nên cũng không tránh khỏi nỗi khổ biến dịc sanh tử. Xem thế đủ
biết nõi khổ thật là lớn lao vô lượng. Có được một lòng thương xót lớn
lao vô lượng cân xứng với nỗi đau khổ vô lượng và có một chi nguyện cứu
độ tất cả thoát khỏi nỗi đau khổ vô lượng, ấy là tâm Bi vô lượng.
Các
vị Bồ Tát nhờ có lòng đại bi nên đã phát tâm bồ đề rộng lớn, thệ nguyện
độ khắp tất cả. Các Ngài nhận thấy mình có sứ mạng vào trong sah tử để
hóa độ chúng sinh, nên không chấp trệ ở Niết Bàn. Sứ mạng chính của các
Ngài là gần gũi chúng sanh để:
Làm cho chúng sanh nhận được mặt thật của cõi đời, rõ thế nào là tà là chánh, là khổ là vui.
Làm cho chúng sanh nhận rõ được thân phận của mình mà thôi làm các điều ác, chừa các điều tội lỗi.
Xem
như thế đủ biết lòng đại bi chính là động lực chánh để đi đến quả vi bỗ
tát và Phật. Trong đại hội Hoa Nghiêm đức bồ tát Phổ hiền cũng tự nhận
và nói như thế này: "Nhơn vì chúng sanh mà khởi lòng đại bi. Nhơn lòng
đại bi mà phát tâm bồ đề. Nhơn phát tâm bồ đề tiến thành ngôi chánh
giác".
Câu nói của Ngài Phổ Hiền đã rõ ràng, không còn nghi ngờ
gì nữa. Phật đã dạy: "Hạt giống Bồ đề, không thể gieo trên hư không, chỉ
trồng trên đát chúng sinh mà thôi". Vậy, chúng ta là Phật tử, muốn tu
bồ tát hạnh, tất phải mở rộng lòng Bi, thương xót tất cả, không phân
chia nhân, ngã, bỉ, thử, và phải phát nguyện độ khắp tất cả, nghĩa là
phải tu luyện cho có được một lòng Bi vô lượng.
2. Từ vô lượng
Từ
là mến thương và vì mến thương mà gây tạo cái vui cho người. Từ vô
lượng là lòng mến thương vô cùng rộng lớn, đối với toàn thể chúng sanh,
và gây tạo cho chúng sanh cái vui chân thật.
Vui của thế gian sở
dĩ gọi là giả tạm, vì cái vui ấy không bền, cái vui ấy còn phiền não chi
phối: khi tham, sân, si, mạn được thỏa mãn thì vui, nhưng có bao giờ
những thứ dục vọng ấy có thể thỏa mãn được hoàn toàn và lâu bền đâu?
Còn
vui xuất thế gian là cái vui chân thật, vì nó lâu bền, thoát ra ngoài
vòng phiền não của tham, sân, si, mạn; nó không bị dục vọng chi phối.
Cái vui này không ồn ào, sôi nổi nhưng vĩnh viễn nhẹ nhàng, vì là cái
vui của cảnh giới giải thoát siêu phàm.
Muốn có được cái vui này,
thì trước tiên phải dứt trừ cho hết các khổ do phiền não gây ra. Nếu
không ngăn chặn được tham,sân, si hoành hành, thì chỉ có thẻ có được
mmọt cái vui nhất thời giả dối.
Bởi thế, các vị Bồ Tát muốn ban
vui cho chúng sanh, thì trước tiên phải có lòng từ bi vô lượngnhư đã nói
trên, để luôn luôn răn nhắc chúng sanh đừng gây tội dìu dắt chúng sanh
tránh xa những hố hầm nguy hiểm.
Qua các giai đoạn ầu tiên ấy
rồi, các Ngài mới hướng dẫn chúng sanh đi lên con đường quang minh chánh
đại, con đường sáng để tiến địa vị giải thoát mà hưởng cái vui vĩnh
viễn. Nói mọt cách rõ ràng hơn là lòng Từ phải đi theo lòng Bi: Bi để
chỉ nguyên nhân của đau khổ và khuyên bảo chúng sanh đừng gây nhân khổ;
Từ để chỉ rõ phương pháp diệt khổ và được vui.
Tỷ dụ Bồ Tát muốn
cho chúng sanh hưởng cảnh Niết Bàn, thì trước hết các Ngài chỉ cho biét
thế nào là khổ (khổ đế) và đâu là nhơn của khổ (tập đế), sau mới chỉ cho
thấy cái vui Niết Bàn như thế nào (diệt đế). Nếu chúng sanh y theo lời
dạy của các Ngài mà thi hành, thì cái vui Niết Bàn sẽ xuất hiện. Như
thế, động lực dạy cho chúng sanh biết khổ đế và tập đế là Bi, còn động
lực dạy cho chúng sanh biết diệt và đạo đế là Từ.
Nhưng nói khỏ
của chúng sanh đã là vô lượng, lòng Bi đã là vô lượng, thì lòng Từ cũng
phải như thế. Muốn thành tựu tâm Từ này, Bồ Tát phải dùng đủ phương tiện
để làm lợi lạc cho chúng sanh. Tựu trung có hai điểm quan trọng sau đây
mà Bồ Tát không thể bỏ qua trong khi hóa độ chúng sanh là: Tùy cơ và
tùy thời.
Tùy cơ: Nghãi là quan sát trình độ căn bản của chúng
sanh như thế nào rồi tùy theo đó mà dạy bảo. Tâm bệnh của chúng sanh vô
lượng, nên thuốc pháp của Bồ Tát cũng vô lượng. Nhưng chính vì bệnh vô
lượng mà thuốc cũng vô lượng nên cho thuốc đúng với bệnh là một điều mà
chỉ có các vi lương y đại tài như Hoa Đà, Biển Thước mới làm được.
Các
vị bồ tát sở dĩ hóa độ được nhiều chúng sanh là nhờ, ngoài trí huệ sáng
suốt, còn có một tâm Từ vô lượng, không quản khó khăn, không nagị gian
nguy, một lòng kiên nhẫn vô biên như l覣242;ng kiên nhẫn của người mẹ đối
với người con, quyết tâm tác thành cho con nên người mới thôi. Nếu
không có được trí huệ, chí kiên nhẫn và nhất là lòng từ bi vô lượng như
các vị bồ tát thì kho tránh khỏi cái nạn thối chuyển vì trần sa hoặc.
Dưới đây là một đoạn văn chương trong Kinh Hoa Nghiêm có thể chứng minh một cách hùng hồn lòng Từ vô lượng của đức Phổ hiền:
"...Hằng
thuận chúng sanh là như thế nào? Nghĩa là có bao nhiêu chúng sanh ở cõi
nước mười phương trong cả pháp giới, hư không giới...tôi đêù tùy thuận
mà chuyển mọi thứ thừa sự, mọi cách cúng dường, như kình cha mẹ, như
phụng sự sư trưởng và A La Hán cho đến bực như lai đều đồng không khác.
Với kẻ bịnh khổ thì làm lương y cho họ, với kẻ lạc đường, chỉ lối thẳng
cho họ, với kẻ trong đêm tối, làm cho họ được sáng lên và với ke nghèo
cùng, khiến cho họ được gặp của...Bồ Tát làm lợi ích bình đẳng với tất
cả chúng sanh như thế là vì bò tát nhận thấy rằng tùy thuận chúng sanh
tức là tùy thuận cúng dường chư Phật nên tôn trọng thừa sự chúng sanh
tức là tôn trọng thừa sự Như lai..".
Tùy thời. Tức là thích ứng
với thời đại với giai đoạn mà hóa độ chúng sanh. Thời gian xoáy vần cuộc
thế biến chuyển mỗi khi một khác. Thời tiết có khi mưa, khi nắng, thay
đổi theo bốn mùa, thì lòng người cũng có khi thích cái này khi ưa cái
khác. Nếu phương pháp hóa độ không biến chuyển, không thay đổi để cho
thích nghi với hàon cảnh, với giai đoạn thì phương pháp dù hay ho bao
nhiêu, cũng chẳng thu được kết quả gì tốt đẹp. Bồ Tát hiểu rõ như thế,
nên khi dạy chúng sanh cũng phải theo thời thế, biết khi nào là tượng
pháp, khi nào mạt pháp để cho giáo pháp được thích hợp với căn cơ.
Tóm
lại, muốn hóa độ chúng sanh một cách có hiệu qủa thì Bồ Tát bao giờ
cũng không quên hai điều chính là tùy cơ và tùy thời. Kinh "Tâm Địa
Quán" cũng có dạy:
" Các đức Phật chuyển pháp luân, vẫn tùy cơ mà
nói pháp, bao giờ cũng tránh bốn điều sai lạc; một là nói không phải
chỗ; hai là nói không phải thời; ba là nói không phải là căn cơ; bốn là
nói không phải pháp".
Bởi những lẽ trên nên Bồ Tát trong lúc hóa
độ khi thì hiện thân, khi thì ẩn thân lúc làm thuận hạnh, lúc lại nghịch
hạnh, khi dùng oai dũng, lúc lại Từ hòa. Công hạnh của bồ tát sai khác
nhiều đến vô lượng, nhưng chỉ phát sinh từ một ý duy nhất là tạo cái vui
chân thật cho chúng sanh.
Nên nhớ "tạo cái vui chân thật" ở đây,
không có nghĩa là tạo ra cảnh giới thiên đàng hay cảnh giới cực lạc để
cho những chúng sanh thân yêu của mình vào hưởng, như người ta ban phép
lạ, mà chỉ có nghĩa là tạo cho chúng sanh cái mầm an vui chân thật bằng
cách thức tỉnh dắt dẫn chúng sinh tránh các điều dữ làm các điều lành
một cách tích cực mạnh mẽ, cho đến khi cái mầm vui, nhưò các hành động
lành ấy mà kết quả vui mới thôi.
Đấy, lòng Từ vô lượng là thế.
Như trên đã nói Từ phải đi theo với B. Nếu chỉ có Bi không, thì đại
nguyện của Bồ tát chưa thành, vì mới chỉ cứu hkổ, chứ chưa ban vui.
Chúng ta là Phật tử, muốn tu hạnh Bồ Tát phải luyện tập cho lòng Từ mở
rộng, mở rộng mãi cho đến vô lượng vô biên.
3. Hỷ vô lượng
Hỷ là gì? Nói cho đúng là tùy hỷ, nghĩa là "vui theo". "Vui theo" có nhiều cách:
Phóng
tâm vui theo những cảnh trần: nào sắc, nào thanh, nào hương, nào vị,
nào xúc, nào pháp..để mặc cho nó làm chủ, không biết phản giác, không
biết tỉnh ngộ mà dẹp trừ những hiện hành phiền não, ấy là vui theo dục
vọng, theo thói quen phóng túng của lòng phàm.
Vui theo ác
nghiệp, như khi thấy một người sát sanh, uống rượu, trộm cướp..đáng lẽ
ta nên khuyên can mà lại không, còn bằng lòng theo họ đi vào con đường
ác. Sự vui theo ở đây có nghĩa là khuyến khích đồng lỏa với kẻ ác vậy.
Vui
theo những việc nhưon từ phước thiện, như khi thấy người đem của ra bố
thí, lập nhà thương, ta tán thành, gíup đỡ vui theo với công việc của
họ.Sự vui theo này là một bước tiến đi đến con đường thiện nghiệp. Tuy
thế, ta nên phân biệt hai trường hợp tốt sẽ được nhiều phước báo, còn
nếu không vì lòng thiện, nhưng vì thấy người làm thiện được người ta ca
tụng, danh tiếng vang lừng mà mình cùng hùa theo tán thành, giúp đỡ để
được tiếng khen lây, thì không khéo chỉ gây thêm ngã ái ngã mạn.
Khác
với những lối vui trên, là những lối vui tầm thường của thế gian, hàng
Nhị thừa chỉ vui theo cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh. Thứ vui theo này,
tuy không có tánh cách trụy lạc ác độc, nhưng theo chánh giáo, thì cũng
còn hẹp hòi, thiếu lòng Từ bi rộng rãi và chưa phải đúng nghĩa "hỷ" vô
lượng tâm. Đức Phật còn quở đó là cái vui "Khôi thân diệt trí" hay "thu
tịch Niết Bàn".
Chỉ có sự "vui theo" sau đây của Bồ Tát mới đúng với nghĩa tâm Hỷ vô lượng.
Trong
khi thật hành phương tiện Từ bi để độ sinh và sau khi công hạnh này
được kết quả, nhận thấy chúng sinh hết khổ, hưởng vui, tâm của Bồ Tát tự
nhiên cũng vui theo. Trong luận Đại Thừa Trang nghiêm Ngài Trần Na Bồ
Tát dạy rằng: "Sự vui này còn nhiều gấp bội sự vui của chúng sinh được
hưởng". Bồ tát còn xác nhận rằng:"Nếu làm chúng sinh được vui, tức làm
cho tất cả chư Phật được vui mừng". Đó là lời nói của đức Phổ Hiền.
Nên nhớ cái "Hỷ" của bồ tát có những đặc điểm sau đây:
Chẳng những không làm cho chúng sinh mê lầm mà còn giác ngộ cái mê và được giải thoát.
Không
còn bị buộc trong vòng vui tự đắc làm tăng trưởng ngã mạn, chấp trước ở
thế gian, mà trái lại, làm cho chúng sinh xuất thế.
Thoát ra
khỏi phạm vi tư lợi mà phổ biến và bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Tóm lại, sự vui ở đây bắt nguồn từ lòng Từ bi mà phát ra. Lòng Từ bi
rộng lớn bao nhiêu thì cái "hỷ" này cũng rộng ớn như thế.
Chúng
ta là Phật tử, tu hạnh Bồ tát, chúng ta phải tập cho được cái vui trong
sạch, giải thoát của các vị bồ tát, chứ đừng quay cuồng theo cái vui
nhiễm ô ích kỷ, hẹp hòi của phàm phu hay hàng Nhị thừa.
4. Xả vô lượng
Xả là cái gì? Xả là bỏ, không chấp không kể.
Thói
thường, khi chúng ta làm điều gì, nhất là khi được két quả tốt, thia
hay tự hào, đắc chí đôi khi ngạo nghể kho chịu. Sự bất bình, cãi vả xung
đột giữa bạn bè thân thuộc hay giữa nhóm này và nhóm khác cũng do tánh
chấp trước. tự cho là quan trọng ấy. Nguyên nhân của tánh nầy là do sự
chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Phàm phu thì vừa thấy có mình làm
(chấp ngã) vừa thấy có công việc kết quả mình đạt được (chấp pháp) nên
cứ bị trói buộc trong cái giới hạn phân chia nhân nãg, bỉ thử và do đó,
không bao giờ thoát được cảnh giới phàm phu.
Còn hàng Nhị thừa
tuy đã xả được chấp ngã, nhưng chưa xả được chấp pháp. Sau khi nhờ tu
tập, các Ngài thoát ly được tam giới chứng được quả Hữu dư y Niết Bàn,
các Ngài coi như đó là phần thưởng xứng đáng của bao công phu tu tập và
yên trí nơi cảnh giới sở đắc ấy. Do đó, hàng Nhọ thừa vẫn còn bị biế
dịch sanh tử.
Chỉ có các vị bồ tát là những bậc chừn được pháp
không, nên đã ly khai quan niệm pháp chấp. Khi các Ngài ra công cứu khổ
cho chúng sinh, thì đó là một sự cảm ứng tự nhiên, giữa các Ngài với
chúng sinh, các Ngài dùng trí hoàn toàn vô phân biệt để được bình đẳng
phổ biến theo đồng thể đại bi.
Chúng sinh có hưởng được vui
chăng, Bồ tát không thấy mình là kẻ ân nhân chủ động. Trai lại, các Ngài
còn thấy chúng sinh là ân nhân của mình trên bước đường lợi tha tiến
đến công hạnh viên mãn. Bởi thê, lòng Từ, lòng Bi của Bồ Tát thoát khỏi
vòng ái kiến và trụ trước, túc là xả vậy. Đến như lòng "Hỷ" cũng thế, Bồ
Tát vui lòng từ bi, thấy chúng sinh được vui chứ không phải lối vui tự
đắc, vui vì thàh thật tán thán công đức chung cùng chư Phật, chư Bồ tát
và chúng sinh, chứ không phải vui vì dắm miếng riêng tư. Cho nên tâm tùy
hỷ đây cũng hoàn toàn giải thoát, nghĩa là cũng thanh tịnh trên tinh
thần "Xả".
Như vậy, Xả là một tâmlượng quảng đại cao cả. ở đó,
không kiến lập một tướng nào. Ke fần Ngài xa đeù bình đẳng, kẻ trí người
ngu vẫn như nhau, mình và người không khác; làm tất cả mà thấy như
không làm gì cả; nói mà thấy mình có nói gì cả, chứng mà không thấy mình
có chứng và quả gì được.Cho nên trong kinh Tú thập nhị chương có chép
"Niệm mà không chấp nơi niệm mới là niệm, hành mà không chấp nơi hành là
hành, nói mà không chấp nơi nói mới là nói, tu mà không chấp nơi tu mới
là tu. Lý hội nghĩa ấy là gần đạo, mê mờ không rõ là xa đạo".
Làm
như thế tức là Xả: Xả hết tất cả mới thật là Bồ tát. Nếu còn chấp một
tướng gì, dù nhỏ nhặt bao nhiêu cũng chưa phải là Bồ tát. Hãy nghe trong
kinh Kim Cang Phật dạy ông Tu Bồ Đề. "Này ông Tu Bồ Đề, nếu có vị Bồ
Tát còn tướng ngã, tướng nhưon, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, tức
chẳng phải là Bồ Tát".
Ý nghĩa chữ Xả đã rõ ràng. Bây giờ chúng
ta chỉ còn cố gắng tu tập dần dần cho được cái tâm xả ấy. Thành tựu được
cái Xả một cách hoàn toàn cái Xả vô lượng tức là chứng quả Bồ đề.
III. SỰ ĐỐI TRỊ CỦA BỐN MÓN TÂM VÔ LƯỢNG
Bốn món tâm vô lượng là bốn trạng thái của Tâm Bồ Tát, nhưng đó cũng là bốn pháp tu của những Phật tử tu hạnh Bồ tát.
Trong
mỗi con người đều có hai xu hướng: xu hướng thiện và xu hướng ác. Hai
xu hướng này cứ xung đột nhau luôn: hễ thiện thắng thì ác lùi, hễ ác
thắng thì hiện lùi.
Khi lòng Giận hừng hẩy, thì tâm Bi bị lấn.
Khi lòng sân bừng dậy, thì tâm Từ bị che khuất.
Khi Ưu não dẫy đầy, thì tâm Hỷ không phát hiện.
Khi lòng Ái dục còn nặng nề, thì tâm xả không sanh.
Trái lại, khi tâm Bi lớn mạnh, thì lòng Hận phải yếu mòn.
Khi tâm từ lan rộng, thì lòng sân phải lùi.
Khi tâm hỷ bừng lên, thì lòng Ưu não phải dẹp xuống.
Sự
chiến đấu với phiền não cũng như sự chiến đấu với giặc cướp, phải tiếp
tục mãi cho đến khi toàn thắng mới dừng lại. Nếu chúng ta mới chiến
thắng vài ba trận đã vội thỏa mãn và dừng nghỉ, thì giặp cướp sẽ tai
phát và hoành hành trở lại.
Cũng thế, trong trận chiến đấu của
Từ, Bi, Hỷ, Xat chống sân, hận, ưu, dục chúng ta phải tiếp tục thi hành
cho đến toàn thắng, gnĩa là Bành trướng các đức từ, bi hỷ, xả cho đến vô
cùng tận để sân, hận, ưu, dục hoàn toàn bị tiêu diệt mới thôi. Một khi
bóng tối đang còn, là vì ánh sáng chưa mạnh, muốn bóng tối hoàn toàn
tiêu tan, thì ánh sáng phải đủ sức chiếu soi cùng khắp. Khi từ bi, hỷ
xả, đã trở thành vô lượng thì phiền não sẽ không còn và hành giả đạt đến
quả vị Bồ tát. Đó là ý nghĩa "phiến não tức là Bồ đề" mà Ngài Bồ tát
Trần Na đã dạy trong Luận Đại Thừa Trang nghiêm.
C. KẾT LUẬN
Chúng
ta thướng nghe quen tai và nói quen miệng bốn tiếng "từ bi hỷ xả".
Những chính vì "quen" quá mà chúng ta không để ý phân tách ý nghĩa sâu
xa của nó. Bốn đức tánh ấy có một sự tương quan mật thiết và bổ túc cho
nhau, thiêu một không được:
Vì thấy chúng sinh vô cùng khổ sở,
nên thương xót chúng sinh. Vì thương xót chúng sinh nên ra tay cứu chúng
sinh khỏi khổ (Bi). Cứu chúng sinh khỏi khổ cũng chưa phải làm xong
nhiệm vụ của tình thương, nên cần phải tiếp tục làm cho chúng sinh được
vui (Từ). Khi chúng sinh hết khổ được vui, mình mới vui được (Hỷ). Nhưng
nếu cái vui này mà còn vướng ngã mạn, tụ đắc vì tự cho mình đã thành
tựu những công hạnh lớn lao, thì cái vui ấy trở thành ái dục, dơ bẩn
nặng nề, kéo hành giả xuống hàng phàm phu. Vậy cái vui ấy cần phải là
một thứ vui trong sạch, hoàn toàn xa lìa các thứ chấp trước như nhân,
ngã, bỉ, thử, chúng sinh, Bồ tát...(Xả).
Đó là về phần phẩm, còn
nói về phần lượng thì bốn đức tánh này cần phải rộng lớn vô cùng, hay
nói theo danh từ thường dùng, là phải vô lượng. Có vô lượng mới đủ sức
cứu độ chúng sinh cũng nhiều vô lượng. Có vô lượng mới lấn át tất cả
những phiền não và không cho chúng có đất sống để tái phát và nhiễu
loạn.
Đó là hành tướng và ý nghĩa của bốn món Tâm vô lượng, hay
của bốn đức: Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, mà chúng ta thường tán thán
mỗi khi niệm các danh hiệu Bồ tát hay Phật.
Phải công nhận rằng
có được bốn món Tâm vô lượng không phải là dễ, mặc dù bốn đức ấy đã nămg
sẵn trong bản tánh thanh tịnh của chúng sinh. Nhưng cùng đừng thấy khó
mà lại chùn chân, lùi bước. Có công việc gì được thành công lớn lao, rực
rỡ mà dễ dàng đâu?
Yếu tó quan trọng gíup cho sự thành công là
sự quyết tam và lòng kiên nhẫn. Người tu hành cũng như kẻ trèo núi. Đừng
thấy núi cao mà nản chí, sơn lòng. Trước tiên phải lập chí quyết trèo
lên trên cho đến chót núi, rồi sau đó tuần tự kiên nhãn bước từng bước
một, đừng hấp tấp và cũng đừng trễ nải thì một ngày kia thế nào cũng đặt
chân lên được chót núi cao.
Người tu hành cũng vậy, hãy phát bốn
lời thệ nguyện lớn, ròi cứ tuận tự, kiên nhẫn, mà tu tập theo những
pháp môn Phật đã chế cho đến khi thành tựu mới thôi.
Cầu mong quí vị Phật tử đều phát tâm dõng mãnh tu bốn món Tâm vô lượng.