Chùa miếu nhà thờ ở Đài Loan có thể
thấy là rất nhiều. Điều này đối với việc tịnh hóa nhân tâm, an định xã
hội, tự nó có ý nghĩa to lớn. Đáng tiếc, tôn giáo tuy nhiều, nhưng
thuần túy tín ngưỡng thì lại rất ít; nhiều tín đồ còn quá mê muội, ngày
càng sa sút, rơi vào tình trạng dung tục không thể tả; có người cầu thần
chỉ để khẩn cầu trúng thưởng, nếu như nguyện vọng của họ không được đáp
ứng thì họ lại phẫn nộ rồi phá miếu bịt tượng.
Có thể trúng thưởng hay không là vấn đề
xác suất lý số. Thần tiên Bồ-tát có chịu làm cộng phạm vì kẻ si hám phát
tài hay không, là vấn đề lẽ phải có thể suy luận dựa vào thường thức.
Những hiện tượng này, khiến tôi nhớ đến bộ phim đã cũ là “Cô tinh lệ 孤星淚
(‘Nước mắt của ngôi sao cô đơn’).
“Cô tinh lệ” được cải biên từ “Bi thảm thế giới”
(悲慘世界)- tác phẩm văn học nổi tiếng Les Misérables của đại văn hào
Victor Hugo (1802-1885) nước Pháp – kể lại chuyện một phạm nhân ăn
trộm ra tù, đã lột xác và thay đổi một cách bất ngờ. Câu chuyện có nhiều
tình tiết vô cùng khúc chiết; trong đó có một tình tiết quan trọng
là: sau khi ra tù kẻ phạm nhân mãn hạn đó đến xin ngủ trọ tại
một nhà thờ, nửa đêm lại trộm đi đồ dùng bằng bạc trong nhà thờ
nhưng trên đường tẩu thoát thì bị cảnh sát bắt về; lúc cảnh sát dẫn
giải y đến gặp vị linh mục thì vị linh mục trái lại chỉ mỉm cười một
cách hiền từ và nói: “Những món đồ bằng bạc này ta đã tặng cho con rồi,
tại sao con lại mang trở lại?”. Ngữ điệu của vị linh mục đầy ắp nhân từ
và khoan dung, vì vậy mà đã cứu vớt được linh hồn của một con người, đã
xoay chuyển số phận bi thảm của anh ta. Nhân vật chính đã hoàn toàn tỉnh
ngộ, từ đấy thay tâm đổi tính, luôn phấn đấu hướng thượng, sau đó còn
trở thành thị trưởng của một thành phố nọ.
Chính trong đoạn ngắn mang tính mấu chốt
này, từ tình cảm và tâm linh tôn giáo của một nhân viên thần chức, tôi
đã thấy được tinh thần tôn giáo chân chính, từ những biểu hiện về lòng
nhân từ, bác ái, lân mẫn và khoan thứ, cho đến đối với một linh hồn
đang vùng vẫy đấu tranh giữa bờ thiện ác nảy sinh một sức mạnh to lớn.
Cái gọi là “nhân tâm bất cổ”, nghĩa là
người hiện đại không rộng lượng như đời xa xưa, họ đa phần chỉ thích
cười trên nỗi khổ đau của người khác, kiểu “giậu đổ bìm leo” (đánh người
chết rồi), thậm chí thấy người khác bị thương còn rắc thêm muối vào
miệng vết thương, hoàn toàn mất đi mỹ đức đôn hậu khoan dung của
người quân tử xưa kia. Người ngày nay đa phần cứ thao thao, tranh nhau
lấy giành giật làm dũng, lấy ủng hữu làm vinh, lấy hưởng thụ làm vui;
không nghĩ rằng, tri túc mới là thường lạc, người có thể nhẫn mới là
‘đại’, người có thể khiêm nhường mới là ‘cao’, người biết cho đi mới là
‘đa’, người có thể khoan thứ, cứu người trong lúc dầu sôi lửa bỏng mới
chính là đại trí, đại nhân, đại dũng.
Tín ngưỡng tôn giáo, không phải cầu
thần coi bói, cầu tài cầu phước; mà là đem tâm vô tư vô ngã, quan
tâm xã hội đại chúng. Phật môn có “Tứ vô lượng tâm”: từ tâm trao cho con
người niềm vui; bi tâm giúp con người giải phóng nỗi thống khổ; hỷ tâm
thấy người ly khổ đắc lạc thì sinh khởi niềm vui; xả tâm không tính oán
thân, đối đãi bình đẳng, lấy vô duyên đại bi, đồng thể đại bi, phổ độ
muôn dân trong thiên hạ. Đấy mới là đạo lý đúng đắn quang minh chính đại
của tín ngưỡng tôn giáo.
Chúng ta đều là kẻ qua đường trong trần
gian; đời người chính là một quá trình từ lúc sinh cho đến khi chết. Ý
nghĩa cuối cùng của sinh mệnh không ở chỗ bạn từng nhận được cái gì, có
được cái gì, hưởng thụ cái gì, mà là ở chỗ bạn từng tạo ra được cái gì,
cho đại chúng những gì, giữ lại cho xã hội cái gì.
Giá trị cao nhất của sinh mệnh là ở chỗ
có thể cứu tế giúp đỡ những người khó khăn, hành thiện tích đức, giải
trừ nỗi khổ đau của tha nhân; niềm vui lớn nhất của đời người, chính là
mang hạnh phúc đến cho người khác.
=============================================
Trích dịch từ Chìa khóa trí tuệ (智慧的鑰?匙)của Trương Bồi Canh, do Trung tâm Chí nghiệp Văn hóa Từ Tế, Đài Bắc xuất bản, năm 2003.
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 149 | T
RƯƠNG BỒI CANH | NGU
YỄN PHƯỚC TÂM dịch