Kẻ chợ là tên gọi dân gian kinh thành Thăng Long xưa,
theo nghĩa hẹp, chỉ khu phố phường dân cư của kinh thành thời Lê -
Trịnh, phân biệt với khu Hoàng thành của vua quan.
Kẻ chợ tập trung của nhiều phường thợ từ khắp nơi đổ
về. Đời sống kinh tế - xã hội của Kẻ chợ gắn bó mật thiết với hệ thống
giao thông thương cảng - sông (sông Nhị và sông Tô Lịch) và các thôn
phường chuyên nghiệp ven đô (như các làng giấy, gốm, dệt, đúc đồng…). Kẻ
chợ được xem là nơi phồn vinh bậc nhất, đương thời có câu "Nhất Kinh
kì, nhì phố Hiến". Để tồn tại và phát triển được ở đất kinh kỳ, người
thợ phải giỏi, tinh nghề biết giữ uy tín và quan trọng hơn cả là phải
biết liên kết thành phường hội.
Theo sử sách ghi lại: Vào khoảng đời Lê (1428-1527)
có một số thợ đúc đồng quê ở 5 xã Đông Mai, Châu Mỹ, Lộng Thượng, Đào
Viên (hay Thái Ti) và Điện Tiền (có tên nôm là làng Hè, làng Me, làng
Rồng, làng Dí trên, làng Dí dưới) đều thuộc huyện Siêu Loại (nay thuộc
vùng Thuận Thành - Bắc Ninh và Văn Lâm - Hưng Yên) cùng nhau ra bán đảo
hồ Trúc Bạch lập nên một làng gọi là Ngũ Xã Tràng (trường đúc của 5 xã)
và mở lò đúc các sản phẩm bằng đồng như nồi, đỉnh, chuông, tượng, đồ thờ
và cả tiền đồng. Về sau làng được tổ chức thành phường nghề riêng, gọi
là phường đúc đồng Ngũ Xã, nay là phố Ngũ Xã, thuộc quận Ba Đình - Hà
Nội
Theo thời gian nghề đúc đồng Ngũ Xã được trọng dụng
và phát triển hưng thịnh. Thời ấy nghề đúc đồng Ngũ Xã đã được coi là 1
trong 4 nghề tinh hoa bậc cao của Thăng Long xưa. Điều này được thể hiện
trong câu vè được lưu truyền từ bao đời: "Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát
Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã".
Hai minh chứng cho sự tinh hoa và hưng thịnh của nghề
đúc đồng Ngũ Xã là pho tượng đồng Trấn Vũ hay còn gọi là tượng Huyền
Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh tượng cao khoảng 3,9m nặng khoảng 4 tấn
và pho tượng Phật Adiđà cao 3,95m, chu vi tượng 11,6m, nặng hơn 10 tấn
toạ trên một đài sen bằng đồng có 96 cánh ở chùa Thần Quang nằm ngay tại
làng Ngũ Xã.
Ngũ Xã bây giờ - Nhất nghệ tinh nhất thân
vinh
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, làng Ngũ Xã nay đã
thành phố xá tấp nập. Nơi đây chỉ còn lại ngôi đình Ngũ Xã, chùa Thần
Quang và hiện chỉ còn hai nghệ nhân đúc đồng là ông Nguyễn Văn Ứng và bà
Ngô Thị Đan (con dâu của dòng họ Nguyễn) là còn "sống, chết" với nghề.
Thật mừng, hai hộ này đều làm ăn khấm khá, tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo
có tính kế thừa cao. Nhiều khách hàng đến đây đặt làm nhiều đồ đồng
khác nhau, có những đồ đúc đồng giá trị hàng tỷ đồng
Ông Ứng tiếp tôi tại phòng trưng bày các phẩm đúc
đồng tại nhà của mình ở mặt phố Trấn Vũ. Ở cái tuổi 60, ông Ứng được
biết đến như một nghệ nhân đạt đến trình độ cao của nghề đúc đồng. Có
thể thấy rõ điều đó qua nhiều sản phẩm được trưng bày ở đây. Những năm
gần đây đời sống ngày càng cao hơn, nhu cầu sử dụng và “chơi “ đồ đúc
đồng tăng mạnh nhờ đó ông Ứng làm không hết việc. Những tác phẩm đúc
đồng tinh xảo như tượng cỡ lớn, chuông, đồ thờ… của ông luôn được ưa
chuộng, ông bán hàng cho khắp cả nước, có nhiều khách quốc tế đến từ Mỹ,
Nhật Bản, Ấn Độ, Pháp, Trung Quốc… tới thăm quan và đặt mua các sản
phẩm đúc đồng mà họ yêu thích. Tuy vậy, ông Ứng cho biết, khách hàng
nhiều và tạo doanh thu nhiều nhất cho ông lại toàn là người trong nước
mua về nhà chơi hoặc để tặng nhau.
Chiếc chuông đồng cao 3 mét nặng gần 6 tấn giá khoảng
2 tỷ đồng khách đặt làm đang được ông cùng các con đúc tại xưởng. Không
chỉ làm đồ truyền thống, ông Ứng còn làm cả tượng chân dung. Đây là một
việc rất khó do phải thể hiện được thần thái của nhân vật qua liệu
đồng. Nhiều chân dung Bác Hồ, lãnh đạo cấp cao của Nhà nước và các vị
anh hùng dân tộc đã được ông Ứng thể hiện thành công như tượng Bác Hồ
đặt tại UBND Thành phố, tuợng nữ anh hùng Võ Thị Sáu tại Bảo tàng Phụ
nữ…
Để mở rộng sản xuất, ông đã thuê đất, đào tạo thợ làm
hàng. Xưởng của ông có đến 20 thợ, tất thảy đều là con cháu của ông.
Ông Ứng có 3 người con trai thì cả 3 người con đều đã được ông truyền
lại nghề tổ từ khi còn nhỏ. Hiện nay, các con ông đều có thể đảm đương
được việc đúc các pho tượng có kích thước lớn và đòi hỏi sự tinh xảo
cao. Điều ông tâm đắc đó là con ông đều có ý định tiếp bước theo nghề
của cha ông.
Người thứ hai tôi gặp là nữ nghệ nhân đúc đồng Ngô
Thị Đan, 58 tuổi. Trong căn nhà nhỏ chừng 30 mét ở phố Nam Tràng, đồ
đồng bày la liệt chỉ chừa lại một lối đi nhỏ. Cũng như ông Ứng, bà Đan
cũng có xưởng đúc bên Gia Lâm với 20 thợ. Hiện bà có 2 con trai nối
nghiệp, thay bà làm hàng. Là người có thâm niên trong nghề nên khách
hàng nhiều nơi tìm đến bà để đặt hàng, sản phẩm của bà làm ra cũng bán
khá chạy. Nhiều bức tượng đồng, chuông đồng, đỉnh đồng cỡ lớn được bà
làm ra như pho tượng phật cao 2,5 mét ở chùa Phổ Quang, chiếc đèn đồng
cao gần hơn 1 mét ở Đền Quan Thánh… Mặc dù cao tuổi, nhưng bà Đan có tư
duy rất cởi mở. Để đa dạng hoá và làm độc đáo sản phẩm, bà Đan cũng mời
nhiều thợ giỏi từ nơi khác đến cộng tác như thợ trạm bạc, thợ điêu
khắc... Chính vì thế, nhà bà có nhiều mẫu sản phẩm tinh xảo. Bà Đan cũng
được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân làng nghề đúc đồng Ngũ Xã.
Cũng như ông Ứng, khách hàng của bà chủ yếu là những
người trong nước thích “chơi” đồ đồng. Bà tâm sự vui với tôi: ‘Nhà có
nhiều khách nước ngoài đến thăm và mua hàng nhưng họ mua ít và trả rẻ
lắm. Tây gì mà mặc cả từng nghìn đồng, khách hàng chủ yếu của tôi là các
“đại gia” mua đồ về bày ở nhà”.
Nghề tinh xảo 5 trong 1
Ông Ứng cho biết, nghề đúc đồng là nghề 5 trong 1.
Một người thợ đúc đồng giỏi phải thành thục 5 việc. Đầu tiên là kỹ thuật
tạo hình, tức là làm ra mẫu cần đúc giống như một nhà điêu khắc; tiếp
theo là tạo khuôn để đúc thành hình; sau khi tạo khuôn thì phải nắm kỹ
thuật đúc bao gồm việc pha chế đồng, nấu đồng và rót đồng; đúc xong đều
phải sửa nguội, đối với một số sản phẩm như lọ hoa, lư đồng, khánh… thì
phải trạm khắc trên bề mặt do đó phải nắm vững cả kỹ thuật trạm; sau
cùng là kỹ thuật đánh bóng. Đây là 5 kỹ thuật tinh xảo khiến cho nghề
đúc trở thành một nghề công phu, phải thực sự có tâm huyết và tài năng
mới theo được nghề.
Ông Ứng nhấn mạnh, làm nghề là phải có “tâm” với
nghề, phải xác định “sinh nghề tử nghiệp”. Có nhiều thợ trẻ sau một
thời gian phải bỏ nghề do không chịu được vất vả, hoặc không đủ kiên
nhẫn để học đủ hết nghề. Có rất nhiều bí quyết trong nghề mà theo quy
định trong họ tộc không truyền cho người ngoài. Ông Ứng kể cho tôi một
ví dụ, việc đắp khuôn phải đắp bằng vật liệu đặc biệt kết hợp với nấu
đồng và rót đồng nóng chảy vào khuôn. Đây là 2 kỹ thuật chính tạo ra
tiếng chuông kêu trong, vang ngân. Nhiều làng nghề khác, do không giỏi
ngón nghề này nên khi đúc ra chuông bị “câm” đánh không kêu vang. Ông
Ứng cũng đã từng phải mời một vị khách nước ngoài ra khỏi xưởng do vị
khách đến thăm xưởng để học lỏm kỹ thuật và vật liệu đúc khuôn của ông.
Mở rộng hay giữ bí quyết nghề?
Bà Đan tâm sự: “Thật vui khi 2 người con trai của tôi
đều nối nghiệp tổ tông. Hiện tại, chúng có khả năng thực hiện mọi công
việc từ dễ đến khó trong nghề”.
Không truyền nghề ra ngoài đó là quy ước xưa của làng
nghề. Tuy vậy trong thời kỹ hội nhập, với tư duy đổi mới, ông Ứng cũng
đã có dự định sẽ mở một xưởng dạy nghề đúc đồng, với mong muốn nghề đúc
đồng của Ngũ Xã sẽ được lưu giữ và tồn tại mãi mãi cùng những nét tinh
hoa của đất Hà thành xưa. Đó cũng chính là mong ước của nhiều lãnh đạo
Thành uỷ và UBND thành phố Hà Nội.
Trải qua bao thăng trầm lịch sử , làng Ngũ xã nay đã thành phố xá tấp
nập. Nơi đây chỉ còn lại ngôi đình Ngũ Xã, chùa Thần Quang (trong ảnh:
Đình Ngũ Xã)
Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Quán Thánh (Hà Nội) được
đúc năm 1677. Tượng cao khoảng 3,9m và nặng khoảng 4 tấn. Tượng đúc
Huyền Thiên Trấn Vũ mặt vuông, mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không
đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên bục đá, tay trái bắt quyết, tay phải
chống gươm có rắn quấn và chống lên lưng một con rùa. Tượng Huyền Thiên
Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng
và tài nghệ của nghệ nhân đúc đồng Ngũ Xã cách đây 3 thế kỷ.
Ngay tại ngôi chùa của làng Ngũ Xá mang tên chùa Thần
Quang hiện có một sản phẩm hết sức tinh tế, kỳ vĩ. Đó là pho tượng Phật
Adiđà được đúc trong những năm 1949 - 1952. Tượng cao 3,95 m, khoảng
cách giữa hai đầu gối là 3,60 m, chu vi tượng 11,6 m, nặng 11 tấn toạ
lạc trên một đài sen bằng đồng có 96 cánh. Tượng có tư thế ngồi bằng,
hình khắc đơn giản nhưng hài hòa, khiến mọi người cảm nhận được vẻ hiền
từ, trầm tĩnh từ nét mặt, thân hình, đến dáng ngồi, nếp áo. Tất cả toát
lên sự trầm lắng, sâu xa, nhưng lại giống người thật. Không chỉ kỳ vĩ về
kích thước, pho tượng này còn được đúc theo kỹ thuật rỗng liền khối,
một kỹ thuật bí truyền mà chỉ làng Ngũ Xã mới có.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng bên bức tượng Liên Hoa Sinh
cao 1,15 m nặng 300kg, phải mất gần 10 tháng để hoàn thành. Bức tượng sẽ
được đặt tại một ngôi chùa ở Đà Lạt.
Nghệ nhân đúc đồng Ngô Thị Đan bên một sản phẩm do
xưởng đúc của bà làm ra.
Các công nhân đang làm việc tại xưởng đúc Mai Hoa của
nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng tại đường Hồng Hà ngay gần làng Ngũ Xã xưa
Tháng 7/2009, ông Ứng được đặt hàng làm quả chuông nặng 6
tấn, cao 3 mét, đường kính 1,2 mét. Quả chuông sẽ được treo tại Đài
Tưởng niệm 10 cô gái thanh niên xung phong tại ngã 3 Đồng Lộc - Hà Tĩnh.
Để hoàn thiện quả chuông này, một tốp thợ phải làm việc trong 7 tháng.
Riêng việc đánh bóng cũng mất hai tuần. Điều quan trọng nhất là quả
chuông khi đánh có tiếng vang lớn. Đây là bí quyết lâu đời của làng nghề
đúc đồng Ngũ Xã.