Trong lời phàm lệ của quyển Tứ
phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam
thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng
hàm thông tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỷ kheo độc trì, như vương bí
tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại
giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận". Dịch
nghĩa: "Ba đời chư Phật đều nói ba tạng Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai
tạng Kinh-Luận chung cả tại gia, xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỷ kheo
gìn giữ, như tạng bí mật của vua, hàng ngoại quan không được biết đến. Nếu Sa
di, bạch y mà xem trước, thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc tội ngang với
tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết sức cẩn thận".
Ý kiến này có lẽ bắt nguồn từ Luật
sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển Luật Sa di: "Bất đắc đạo thính
Ðại Sa môn thuyết giới".
Thật ra, câu cảnh cáo của ngài Châu
Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được nghe lén khi Tỷ kheo tụng giới; vì nghe
lén là hành vi bất chính. Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp nhân của một vị
Tăng thực thụ nên không được phép tham dự vào những sinh hoạt chính yếu của Ðại
tăng như các việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v... Nếu người chưa thọ Cụ túc mà
khoác áo cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỷ kheo, tham dự các pháp yết ma, bố tát,
tự tứ thì phạm tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về sau không được
thọ Ðại giới, hay giới Tỷ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền phương tiên (thủ
tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi trong Tăng chúng: "Người chưa thọ
giới Cụ túc đã ra chưa?". Và khi được xác nhận trong Tăng không có người
nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến hành các pháp yết ma. Như vậy, việc
làm này rất chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ giới Cụ túc
xem giới pháp của Tỷ kheo? Còn việc không cho Sa di, bạch y tham dự bố tát là
có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm chư Tăng bố tát, có một người bạch
y tham dự, sau đó, một Tỷ kheo phạm tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ kheo.
Các Tỷ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: "Từ nay trở đi không
nên cho bạch y và Sa di tham dự bố tát" (Ngũ phần luật, Ð.22, tr.123a).
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây
mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
Nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ:
"Nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư" (Nếu muốn
hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng). Và một đoạn khác trong Luật Sa
di, Ngài khuyến khích: "Tuy Tỷ kheo sự, Sa di đương dự tri chi" (Tuy
là việc của Tỷ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Như vậy, thiết nghĩ
quan điểm của Luật sư Châu Hoằng đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận như
trường hợp ngài Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có người đã luận
giải, nêu ra ba lý do:
1- Nếu Sa di xem trước giới luật Tỷ
kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn, sẽ sanh tâm thối thất, không dám
thọ giới Cụ túc.
2- Nếu Sa di biết giới luật Tỷ kheo,
khi họ thấy các Tỷ kheo thọ giới rồi mà không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm cấm
giới, họ sẽ sanh tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỷ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất
lợi ích.
3- Khi đã biết trước giới pháp thì
lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm chí thành sẽ sút giảm nên
khó đắc giới thể.
Lý luận ấy mới nghe qua có vẻ như
hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không ổn. Vì các lẽ: Thứ nhất, chẳng lẽ
những người xuất gia toàn là những kẻ bạc nhược hết hay sao mà "thấy giới
pháp nhiều sanh tâm thối thất?"; thứ hai, lẽ nào những người xuất gia lại
quá kém phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, hễ "thấy Tỷ kheo phạm giới
liền sanh tâm khinh rẻ?"; thứ ba, vấn đề giới tử đắc giới thể là do ba
việc: "Giới sư thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới tử chí
thành", chứ đâu phải nhờ giới tử không biết trước giới luật mà đắc giới
thể?
Quả thật lối lập luận trên có nhiều
chỗ đi xa tinh thần giới pháp và giới luật. Ai cũng biết ngài Qui Sơn (771-833)
định nghĩa người xuất gia: "Phàm là người xuất gia là mong cất bước đến
chân trời cao rộng, hình dáng và tâm hồn khác với thế tục. Vì mục đích làm rạng
rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi". Và các
bậc cổ đức cũng đã nói: "Thế thượng phi trượng phu đại giải thoát hán, hà
năng kham thủ?" (Trên đời này, nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải
thoát, thì làm sao đảm đương nổi "sứ mệnh xuất trần"?).
Vả lại Luật dạy, vị thầy khi nhận đệ
tử xuất gia phải chọn những người: về hình dạng thì sáu căn phải đầy đủ, không
mắc một khuyết tật nào, về tâm hồn thì phải là người hảo tâm xuất gia, có dũng
khí kiên cường bất thối, chứ không phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà ca
dao ta có câu "Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu".
Ðúng ra, vì nhờ xem trước giới pháp
nên Sa di biết được công dụng của giới là "phòng phi chỉ ác", là
"thuyền bè đưa người qua bể khổ", nên họ mới sinh tâm khát ngưỡng,
trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó
làm mà các Tỷ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm tâm cung
kính, chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỷ kheo khi đã hiểu rằng mọi
người đều biết những giới luật mình đã lãnh thọ, thì càng phải nỗ lực hộ trì
không dám buông lung, vì sợ thiên hạ phê bình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các
nước Nam phương như Campuchia, Thái Lan..., mọi Phật tử đều biết giới luật của
Tỷ kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường hay chỉ
trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều kiện và tìm
cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở thành phố ta có
những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương Phật pháp. Nếu Phật
tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách ngăn chặn hành vi phi pháp
của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong sáng của đạo pháp.
Còn vấn đề này nữa, tạng Luật phải
chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy Tỷ kheo, các chúng khác không có quyền
biết đến? Khẳng định như vậy thật là vô căn cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực
tế. Vì trong các giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di, không có một giới
nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỷ kheo hết. Ðành rằng chỉ có các Tỷ kheo
thọ 250 giới, và các Tỷ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận tuân thủ giới pháp
của mình, còn những người khác không ai có quyền bắt họ phải tuân thủ. Ðó là
nói về trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thị, tìm hiểu với thiện chí hướng
thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỷ kheo mà không vi phạm bất
cứ điều khoản nào.
Giả sử một hội đoàn nào đó gọi chúng
ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì liệu chúng ta có yên tâm
gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường,
người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường
tận điều lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Ðó là một việc làm hợp lý và có
tinh thần khoa học.
Vả lại, Phật giáo là đạo công
truyền chứ không phải bí truyền, là đạo trí tuệ chứ không phải giáo điều,
lại càng không chấp nhận sự cuồng tín. Chính Ðức Phật đã bác bỏ quan điểm độc
quyền của Bà La Môn cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà La môn mới có quyền đọc Thánh
kinh Vệ Ðà. Phật còn dạy: "Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng
Ta". Và một chỗ khác lại nói: "Chánh pháp được thuyết giảng giống như
bàn tay mở ra, chứ không phải bàn tay nắm lại". Hoặc nói: "Phật pháp
là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí
chứng ngộ". Chung quy cũng chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng
khoáng, tự do tư tưởng và tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.
Hơn nữa, bàng bạc đó đây trong một
số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỷ kheo; như kinh Di Giáo, Phật dạy Tỷ kheo
không được buôn bán đổi chác, không được mua ruộng tạo nhà, không được đào đất,
đốn cây, không được coi ngày, xem tướng v.v... Như vậy toàn là giới cả, chứ có
gì khác đâu. Vả lại ngày nay, kinh điển, giới luật được in ấn, phát hành rộng
rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta xem giới cho được.
Hơn nữa, giá như ông cha ta để lại
lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp với đạo lý làm người, hầu trở thành
một người hữu ích, có giá trị, rồi chúng ta đem cất trên khám mà thờ, không
biết trong đó nói gì, thì thử hỏi hành vi ấy là tôn kính hay bất kính đối với
tổ tiên?
Ai cũng biết rằng tính chất của giới
luật là "thanh lương", nghĩa là mát mẻ, là "biệt biệt giải
thoát", tức là giữ được điều nào giải thoát được điều ấy, thế mà bảo rằng
"người nào xem trước giới luật Tỷ kheo thì phạm tội ngang bằng tội ngũ
nghịch" thì thực không còn biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng hóa ra
quyển Luật Tứ phần là một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói kiểu ấy là chỉ
nhìn vấn đề một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều người hiểu
rành giới luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều; và những tội ác xảy ra
hàng ngày làm cho chúng ta phải đau lòng chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
Ðành rằng công đức xiển dương Luật
học của ngài Hoằng Tán là đáng trân trọng, chúng ta chẳng dám xem thường; nhưng
nếu bảo phải tin một cách tuyệt đối, không được tìm hiểu thấu đáo, thì chúng ta
cũng không thể chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Ðức Phật dạy:
"Khi nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin ngay, dù
nó là Thánh điển".
Thử hỏi, từ khi Ðức Ðạo sư chế giới,
trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến Tổ Châu Hoằng (1532-1612), giới luật vẫn
thuần khiết, nhất vị, không có điều gì phải thắc mắc, đến khi ngài Hoằng Tán
(1611-1685) xuất hiện sau Tổ Châu Hoằng gần cả thế kỷ, đưa ra một câu nói khiến
cho nhiều người hoang mang, thì làm sao chúng ta không bức xúc cho được?
Do vậy, chúng tôi mạo muội nêu vấn
đề này ra thương xác ở đây là nhằm hai mục đích: thứ nhất là hy vọng trấn an
được phần nào nỗi hoang mang của tầng lớp Tăng Ni trẻ, nhất là những người mới
xuất gia, chưa thọ Ðại giới; thứ hai là để cho những ai tha thiết tìm hiểu giới
pháp có thể nhận thức đúng đắn tinh thần giới luật mà đấng Ðại giác đã từ bi truyền
dạy. Vì thế, tuyệt nhiên không hề có ý phê bình ngài Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy,
chúng tôi cũng rất mong thỉnh thị các bậc tôn túc luật sư cao minh, và hy vọng
nhận được sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có điều chi sai sót./.
(Trích "Phật Học Cơ Bản - Tập 3",
Nguyệt san Giác Ngộ, 2000)