Tiến
sĩ Đỗ Kim Thêm đã dày công sưu tầm và phiên dịch các bài nghiên cứu đặc
sắc và có giá trị nghiên cứu này, góp phần làm phong phú nền Phật học
Việt Nam.
Việc
Liên Xô và khối Xã hội Chủ nghĩa từ cuối thập niên 1980 của thế kỷ XX
là những biến động quan trọng đã làm thay đổi cục diện thế giới triệt
để. Những thành tựu ngoạn mục của các ngành khoa học hiện đại, đặc biệt
là công nghệ thông tin, đem các dân tộc trên thế giới gần gũi và thông
cảm nhau hơn bao giờ hết.
Cách
biệt địa lý không còn nữa nên cũng là động cơ thúc đẩy cho các công ty
đa quốc đầu tư ào ạt trên bình diện toàn cầu và làm gia tăng cơ hội mậu
dịch và xuất khẩu cho các nước chậm tiến. Đây là một điều kiện tiên
quyết cho các nước hội nhập vào sinh hoạt chung của thế giới. Các hình
thức viện trợ quốc tế gia tăng cũng tạo thêm phương tiện hữu hiệu làm
cho tiến trình thay đổi này được nhanh hơn.
Trước
một bối cảnh toàn cầu hóa đầy năng động và lạc quan ai cũng tin là phát
triển kinh tế, tôn trọng nhân quyền, phát huy dân chủ, bảo đảm bình
đẳng về an sinh phúc lợi, nâng cao văn hóa, trao dồi đạo đức cho mọi
người là một khả năng hiện thực và thế giới đang tiến dần về một nền văn
minh đại đồng và hòa bình vĩnh cửu.
Nhưng
thực tế đã xảy diễn trái ngược. Xung đột địa phương và bạo lực giữa các
sắc tộc lan rộng, khủng bố nhân danh tôn giáo đe dọa an ninh toàn cầu
đến mức độ đáng ngại, kinh tế tại các quốc gia công nghiệp suy thoái
nghiêm trọng, giá trị của mô hình kinh tế thị trường bị nghi ngờ và
không ai còn tin các giải pháp kinh tế xã hội hiện nay sẽ mang phép lạ
làm biến đổi được tình hình ngày càng nguy kịch.
Triển
vọng hội nhập vào kinh tế thế giới của các nước chậm tiến cũng trở nên
mơ hồ vì cơ hộigiao thương và đầu tư ngoại quốc lại sụt giảm. Tác hại
hơn, giá trị dân chủ không được phát huy, nhân quyền bị vi phạm có hệ
thống, mọi tự do dân chủ cơ bản đều bị bóp nghẹt, bình đẳng và an sinh
xã hội cho người nghèo không đạt được, vì các chế độ độc tài chỉ giúp
cho tham nhũng bất công và nghèo đói gia tăng.
Dù
những thành tựu trong mọi lãnh vực đã và đang đóng góp sự phát triển
chung một cách đáng kể nhưng vẫn còn quá xa sự mong đợi. Thế giới hiện
nay có chung vấn đề mới là biến đổi khí hậu, môi sinh thay đổi, tài
nguyện cạn kiệt, dân số gia tăng, giáo dục xuống cấp. Bi quan nhất có lẽ
là quan hệ con người trong một thế giới bất ổn không được coi trọng và
hoằng dương đạo đức, một điều kiện chủ yếu để phát triên nhân cách và
tâm linh cá nhân để đóng góp cho một thế giới hòa bình trở nên khó khăn
hơn.
Trong
viễn cảnh đó, những người ưu tư và đặc biệt là các Phật tử luôn muốn
tìm hiểu quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề nóng bỏng hiện nay của
thế giới như thế nào. Ngoài việc hướng dẫn cho Phật tử thực hành học
Phật tu nhân trong đời sống hằng ngày để tìm về bến giác, thì giáo lý
Phật giáo có những luận giải và đóng góp trong các vấn đề như chiến
tranh, hòa bình, kinh tế, nhân quyền, dân chủ, tự do, khoa học, môi
sinh, tiêu thụ và dân số. Đây là chủ đề chính của tuyển tập này nhằm
giới thiệu các công trình nghiên cứu của các học giả nổi danh từ Anh,
Đức và Pháp ngữ được TS. Đỗ Kim Thêm dịch sang Việt ngữ để phục vụ cho
người Việt nắm bắt được vấn đề và đóng góp vào việc thảo luận chung hiện
nay. Bố cục và đại ý của các chuyên đề trong tuyển tập này gồm 6 phần,
mỗi phần là một chương.
Chủ
đề của chương 1 là Chiến tranh và hoà bình theo quan điểm của Phật
giáo. Nguyên bản Anh ngữ của bản dịch là War and Peace, chương VI trong
tác phẩm An Introduction to Buddhist Ethics của GS. Peter Harvey do nhà
xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm 2000, từ trang 239-285.
Peter
Harvey đã luận giải về nguyên nhân của tranh chấp trong một thế giới
đầy bạo lực và lập trường bất bạo động là giải pháp đạo đức cho các xung
đột. Giáo lý Phật giáo đề ra những cơ sở đạo lý cho việc suy tưởng này
và hướng dẫn thực hành về phương thức bất bạo động. Giảm sân hận và tăng
nhẫn nhục, thực tập kiên trì và hỷ xả sẽ giúp cho xoa dịu tình huống.
Ngoài
những luận giải theo kinh điển ông đã trình bày về những đóng góp của
Phật giáo cho hòa bình trong thế giới hiện đại, mà những hoạt động hỗ
trợ thuộc tông phái Nhật Liên tại Nhật, Sarvòdaya Sramadàna tại Sri
Lanka, tác động hòa giải của Hòa thượng Mahà Ghosànanda trong việc khôi
phục Campuchia là những kinh nghiệm thực tế.
Tác
giả kết luận rằng ở thế kỷ XX vẫn còn nhiều cuộc đấu tranh của Phật tử
chống lại bạo lực, nhưng truyền thống Phật giáo là một nguồn gốc quan
trọng để có thể tìm một giải pháp cho xung đột. Trong khi tự do tôn giáo
vẫn còn bị tiếp tục đe doạ, thì cũng có những nhà lãnh đạo tôn giáo
dùng bất bạo động làm phương thức để chống chính quyền độc tài.
Những
người đấu tranh cho hòa bình theo quan điểm của Phật giáo hiện nay là
Dalai Lama, Aung San Suu Kyi, Ariyaratne, Ghosànanda, Dalai Lama và Aung
San Suu Kyi đã nhận giải Nobel về hòa bình trong khi Ariyaratne,
Ghosànanda đều được đề cử để nhận giải. Với phương cách trích dẫn các
loại kinh điển cực kỳ công phu và thư mục nghiên cứu nghiêm túc, GS.
Peter Harvey đã minh chứng rằng quan điểm của Phật giáo có khả năng giải
quyết chiến tranh và đem lại hòa bình cho nhân loại.
Trong
chương 2, “Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo” Peter Harvey
trích dẫn kinh điển Đại thừa để chứng minh rằng Phật giáo đã có đề cập
đến các vấn đề kinh tế. Giá trị cổ truyền của Phật giáo là đối nghịch
với những giá trị trong một xã hội nặng về chiếm hữu và tiêu thụ vì phúc
lợi vật chất không là cứu cánh tự tại, mà chỉ là một phương tiện mang
lại hạnh phúc cho con người và hỗ trợ cho sinh hoạt nhằm phát triển đạo
đức và tâm linh.
Nguyên
bản Anh ngữ của bản dịch là Economic ethics, chương V trong tác phẩm An
Introduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues của GS.
Peter Harvey do nhà xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm
2000, từ trang 187-238.
Đức
Phật đã dạy cho cư sĩ rằng mưu sinh liêm chính là giá trị tâm linh sẽ
giúp thành công trên thế gian, đặc biệt là khi cư sĩ biết sử dụng phù
hợp thu nhập và bố thí. Thái độ đạo đức của Phật tử đối với tài sản sẽ
có những ảnh hưởng tốt đẹp đến việc phát triển kinh tế xã hội.
Đối
với giới lãnh đạo, đức Phật nói rằng nghèo đói có mặt thì bất ổn xã hội
tăng lên, trách nhiệm của vua quan là quan tâm đến người nghèo và đầu
tư vào nhiều lãnh vực khác nhau cho nền kinh tế. Phật giáo kêu gọi lòng
hào phóng, buông bỏ và từ bi của giới lãnh đạo và Phật tử. Khi tất cả
mọi người nỗ lực để làm việc cho một xã hội đạt nhiều công bình hơn, thì
kêu gọi công bình tự tại hay công bình trong việc phân phối về kinh tế
là không cần thiết. Tu viện là một định chế chủ yếu trong mạng lưới
chính về thương mại và bố thí và hoạt động của tu viện đã có những hiệu
ứng về kinh tế. Thái độ kinh tế của sư tăng cũng có vai trò quan trọng
để phát triển tăng đoàn và xã hội.
Đạo
đức kinh tế của Phật giáo không tương phản với việc phát triển chủ
nghĩa tư bản và đã hỗ trợ cho chủ nghĩa tư bản sơ khai tại Ấn thời cổ,
tại Trung Quốc và Nhật Bản thời trung cổ. Có nhiều phê phán rằng Phật
giáo giúp cho tín đồ tu tập hướng về một thế giới khác, làm giảm đi
những động lực phấn đấu cho giá trị của thế giới này, vì thế Phật giáo
không có một vai trò tích cực trong việc thay đổi xã hội. Đây là một
luận điểm sai lầm vì không coi trọng mối quan hệ giữa Phật giáo và xã
hội.
Tác
dụng của Phật giáo đối với nhà nước được chứng minh qua việc cổ vũ về
đạo đức, công tác từ thiện. Phật giáo đã đóng góp rất lớn trong việc
canh tân và phát triển Nhật là một thí dụ điển hình.
Kinh
tế học theo quan điểm Phật giáo hoàn toàn khác biệt với kinh tế học của
chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa Xã hội. Phát triển kinh tế phải được đặt
trong một bối cảnh rộng rãi hơn về nhu cầu phát triển nhân cách toàn
diện và hạnh phúc an lạc mà lối sống của Phật tử sẽ đem lại ý nghĩa cao
đẹp cho một nền kinh tế. Phật giáo thấy cốt tủy của văn minh không chỉ
nhằm gia tăng những ham muốn nhưng mà còn làm thanh cao nhân cách của
con người. Tìm cách triển khai khái niệm này bằng cách đề xuất một loại
chủ nghĩa xã hội mang màu sắc “chính Pháp” (Dhammic Socialism) là một
phương cách trung dung để tránh được sai lầm đã có của các chủ nghĩa
trong bối cảnh hiện đại.
Mô
hình phát triển của phong trào Sarvòdaya Sramadàna tại Sri Lanka là một
thí dụ vì đã tái khám phá đạo đức xã hội của Phật giáo. Những giáo huấn
Phật giáo nhằm hướng tới một tinh thần dấn thân cho xã hội, tạo một
phương cách hội nhập hòa hợp theo một đường lối trung dung và thay đổi
nhằm đem lợi ích cho cá nhân, xã hội và môi trường, hòa nhập cải thiện
vật chất vào tâm linh, với sự chuyển hóa của cá nhân và với sự tương trợ
trong xã hội. Sự đóng góp của Phật giáo trong việc phát triển kinh tế
hiện đại của Nhật được minh chứng qua sự thành công của phong trào Sòka
Gakkai, phong trào xây dựng giá trị xã hội, một hình thức của Phật giáo
theo Nhật Liên Tông.
GS.
Peter Harvey minh chứng rằng khi xem Phật giáo không quan tâm đến các
vấn đề kinh tế, thì đây là một sai lầm, vì đức Phật có hoằng hóa cho các
cư sĩ, tăng đoàn và giới lãnh đạo về các lĩnh vực kinh tế. Hình thức
tiêu thụ của chủ nghĩa tư bản và giáo huấn của Phật giáo, khi gặp nhau,
có nhiều phù hợp hơn, nếu chủ nghĩa tư bản đóng góp cho việc phúc lợi
chung hơn là tìm tư lợi. Trong phương cách làm việc của Phật tử có thể
đóng góp nhiều trong sự phát triển chung, mà giá trị của nó được đặt ra
trong môi trường xây dựng nhân cách, hơn là chỉ đơn thuần là tạo thêm
thu nhập.
Trong
chương 3, vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo theo quan điểm Phật giáo
được đề cập. Nguyên bản Đức ngữ của bản dịch là “Menschenrechte und
religiöse Freiheit aus der Sicht des Buddhismus” được đăng trong Hans
Küng & Karl-Josef Kuschel (Hrsg.): “Weltfrieden durch
Religionsfrieden, Antworten aus den Weltreligionen”, Piper, München,
Zürich 1993, trang 109-139. Tham luận này được GS. Masao Abe trình bày
tại cuộc hội thảo quốc tế: Các tôn giáo trên thế giới và vấn đề nhân
quyền, do UNESCO tổ chức vào ngày 8-10 tháng 2 năm 1989 tại Paris.
Masao
Abe cho rằng có sự khác biệt của Phật giáo và các tôn giáo phương Tây,
vì Phật giáo không đặt vấn đề sự hiện hữu của một Thượng đế cá nhân, mặc
khải, tiên tri hay cứu rỗi qua niềm tin. Phật giáo không từ bỏ, lên án
hoặc kết tội là tà giáo, mà thực ra phê phán trong tinh thần xây dựng,
dưới nhiều nhãn quan khác nhau và cùng nhau hướng về một tín ngưỡng
chung. Phật giáo hướng dẫn tìm hiểu về quy luật duyên khởi, tự kiến bản
ngã, suy niệm và thoát bỏ mọi hệ lụy. Phật giáo không chủ trương cực
đoan phủ nhận những tín ngưỡng khác với tín ngưỡng của mình.
Lập
luận bảo vệ nhân quyền của Phật giáo cũng hoàn toàn khác biệt vì trong
kinh điển Phật giáo không có ý niệm nhân quyền tương tự theo ý nghĩa của
phương Tây. Phật giáo không cho rằng bản thể con người chỉ giới hạn
trong quan điểm về nhân chủng, mà đặt con người trong một tuơng quan
rộng rãi hơn với tạo vật và vũ trụ. Theo Phật giáo, con người là một
thành phần hữu tri giác trong một tổng thể của muôn loài vừa hữu tri
giác và vô tri giác, vì con người và tạo vật trong vũ trụ đều đặt mình
trong quy luật sinh diệt hữu hạn. Do đó nhân quyền trong Phật giáo được
hiểu trong chiều hướng vũ trụ, phổ quát và vượt qua ý niệm về nhân chủng
này. Phật giáo không loại bỏ những quyền của các sinh vật khác như cây
cỏ và thú vật.
Ðể
hiểu quan điểm của Phật giáo về vấn đề nhân quyền đúng đắn hơn, điều
cần thiết nhất là phải đặt lại vấn đề bản ngã, bởi vì vấn đề nhân quyền
và tự do của con người không thể nào lãnh hội được nếu không có sư hiểu
biết tường tận về bản ngã. Trong tất cả những điều răn của Phật giáo đều
hàm chứa một điều: không nên hủy diệt cuộc sống, lời khuyên này không
những áp dụng cho con người mà còn cho cả muôn loài có tri giác. Thiên
nhiên không những lệ thuộc vào con người, mà ngược lại con người cũng lệ
thuộc vào thiên nhiên. Sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo tại
phương Tây đã gây ra một hậu quả quan trọng trong các vấn đề tự do tôn
giáo.
GS.
Masao Abe kết luận là Phật giáo có thể đóng góp trong vấn đề nhân quyền
và khoan dung tôn giáo với ba giải pháp: Buông bỏ mọi ràng buộc vào hệ
thống tín điều và giáo điều. Không có một tôn giáo nào tồn tại mà không
có hệ thống tín điều, nhưng thái độ đối với hệ thống tín điều là quan
trọng. Khi mà tín điều chỉ được coi là chủ yếu và chỉ nhằm ràng buộc mọi
tín đồ, thì hệ thống tín điều này chỉ là một giáo điều.
Sự
nhấn mạnh đến giáo điều thường đưa tới sự phân hóa trong tôn giáo và
đưa tới sự phản kháng của các tôn giáo khác. Ðiều này tạo ra những xung
đột tôn giáo ngay cả đến thánh chiến. Các tôn giáo này thường nhấn mạnh
quá mức mọi niềm tin duy nhất vào chân lý mặc khải cũng còn được biết
đến về sự cố chấp của mình, điều này bắt nguồn từ hình thức tín ngưỡng
cứng nhắc mà ra. Khi nào chúng ta từ bỏ mọi ràng buộc với các gíáo điều
và trở về với chân lý tôn giáo như là cội nguồn của đạo lý, chừng đó
chúng ta mới tránh được mọi phân hóa và thánh chiến và chúng ta không
những khoan dung trong chính tôn giáo mình mà còn khoan dung với các tôn
giáo khác.
Chủ
đề của chương 4 là phát triển khoa học theo quan điểm Phật giáo. “Vô
Tận trong lòng bàn tay -Từ thuyết Ðại bùng nổ đến Giác ngộ” là một tiểu
luận Việt ngữ của TS. Đỗ Kim Thêm đã đăng lần đầu tiên trên Tập San Viên
Giác Tây Ðức Số 126 Xuân Nhâm Ngọ 2002. TS. Thêm viết để giới thiệu tác
phẩm Pháp ngữ “L’infini dans la paume de la main - Du Big Bang à
l’Éveil” của Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận, Nhà xuất bản:
Fayard/Nil, Paris 2000 nhằm giúp cho bạn đọc người Việt theo dõi một
cuốn sách đang bán chạy nhất tại thị trưòng Pháp ngữ mà lúc đó các bản
dịch Anh và Việt ngữ chưa ra đời. Về sau bài này được trang mạng Thư
viện Hoa Sen, Vietsciences và nhiều trang mạng khác phổ biến.
Tác
phẩm “L’infini dans la paume de la main - Du Big Bang à l’Éveil” là một
công trình đầu tiên quy mô và nghiêm túc nhằm đối chiếu những thành tựu
khoa học hiện đại với những luận điểm liên hệ theo Phật giáo.
Nội
dung được hai tác giả đề ra để thảo luận về mối quan hệ giữa Phật giáo
là sự dị biệt về hai trào hướng của hai lãnh vực, vấn đề sự khai nguyên
vũ trụ, nguyên lý tổ chức cho vũ trụ, giải thích sự hiện hữu của các
phần từ sơ đẳng, tính cách vô thường trong thế giới hiện tượng, vấn đề
định mệnh, thời gian, thuyết nhân quả, quan hệ giữa tinh thần và vật
chất, quy luật khoa học và quy luật Phật giáo, tầm quan trọng của lý trí
trong khoa học và suy niệm trong Phật giáo, thẩm mỹ trong khoa học và
Phật học, khoa học hành động theo Phật giáo.
Với
một kiến thức uyên bác về vấn đề chuyên môn và khả năng giải thích
trong sáng, hai tác giả luận giải về tương đồng và dị biệt giữa tôn giáo
và khoa học. Khởi đầu từ luận đề của Galilée học giới cho là hai thế
giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật giáo
với các tôn giáo khác đã cho rằng Phật giáo có thể đáp ứng được những
nhu cầu đòi hỏi của khoa học. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý
và thực tiễn của Phật giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ
dựa trên kinh điển và giáo điều.
Hai
tác giả kết luận rằng Phật giáo là một tôn giáo có thể đối thoại với
khoa học. Phật giáo và khoa học không những không đối kháng mà còn bổ
khuyết cho nhau trong việc tìm hiểu khoa học hiện đại và đời sống tinh
thần của từng cá nhân cũng như trong nỗ lực về sự chế ngự thiên nhiên và
kềm chế bản ngã để tìm đường thoát khổ.
Trong
chương 5, những vấn đề dân số, tiêu thụ và mội trường theo quan điểm
Phật giáo được đề cập chi tiết. Nguyên bản Anh ngữ của bài này là
“Buddhist Resources of Issues of Population, Consumption and the
Environment” được đăng trong Mary Evelyn Tucker and Dunncan Ryuken
Williams (eds.): Buddhism and ecology: the interconnection of dharma and
deeds, Harvard University, Center for the Study of World Religions,
Cambridge Mass: Harvard Uni Press, 1997 pp. 291- 311.
Giáo
lý Phật giáo không hề trực tiếp đưa ra những giải pháp cho các vấn đề
của thời đại như dân số, tiêu thụ hay môi trường. Tuy nhiên khi giải
thích những giá trị nội tại của giáo lý Phật giáo qua kinh điển, thì ta
sẽ tìm ra những đường lối thích hợp để giải quyết các vấn đề này. Giải
thích giá trị của Trung đạo sẽ tìm ra một giải pháp cho các vấn đề, mà
thái độ tiết chế là một đề nghị và Phật tử nên noi theo. Chúng ta không
thể mở rộng môi trường và gia tăng tài nguyên tùy thích, mà chỉ có thể
giảm bớt dân số và tiết chế tiêu thụ
Phật
giáo không khuyến khích sinh sản, không bắt buộc Phật tử phải có con
như một bổn phận tôn giáo. Sinh con hay không là do quyết định của riêng
mình. Quyết định này đến từ ý thức về cuộc sống của con người trong thế
gian và trách nhiệm trong tình liên đới, chứ không phải do tai nạn hay
bổn phận.
Phật
giáo đề cao rất mực điều may mắn khi được sinh ra làm kiếp con người,
không phải vì có nhân quyền hay được đứng trên tạo vật khác. Theo ý
nghĩa tiết chế thì sống một đời xa xí là vô nghĩa, nhưng sống nghèo khó
chẳng đưa đi đến đâu. Phật giáo không lên án giàu sang mà cũng không hề
ca ngợi nghèo đói. Một đời sống tiết chế là điều kiện cần thiết và tiên
quyết cho sự tu tập để đạt tới giác ngộ. Để việc tu tập có kết quả, Phật
tử cần có một cơ sở vật chất tối thiểu và bình an tâm hồn.
Thay
vì chỉ lo nối dõi tông đường, Phật tử cần nỗ lực khởi động tâm Bồ-đề,
một hơi ấm của lòng từ bi cho tất cả chúng sinh và muôn loài, vượt qua ý
nghĩa hạn hẹp cá nhân gia đình, tộc họ, điạ phương hay đất nước. Tâm
Bồ-đề là một chủng tử giác ngộ cần vun bồi và lưu truyền, nó cũng quý
giá như các di sản văn hóa khác của nhân loại.
Quan
niệm rằng quan hệ tình dục mà không sinh sản là bại hoại đạo đức, giá
trị này cần được xét lại trong điều kiện thặng dư dân số hiện nay. Vấn
đề tình dục, sinh sản và đạo đức nên được thảo luận công khai và tách
biệt ra, thay vì kết hợp lại để lên án. Nhiệm vụ chủ yếu của quan hệ
tình dục là cảm thông và gắn bó trong xã hội con người. Kim Cang Thừa
mang tính Mật giáo, phương pháp tu học huyền bí, bao gồm tôn giáo thiên
nhiên của Ấn Độ và Phật giáo, đặc biệt có tôn thờ giới tính và hình
tượng nam nữ yêu nhau. Nam và nữ được so sánh như trí thức và từ bi.
Quan hệ vợ chồng được xem như một tình bạn đồng môn, cùng tu tập và giúp
nhau trong cuộc đời với sự đối xử trân trọng và bình đẳng nhau, mà tình
dục là một biểu tượng thiêng liêng, chứng minh cho sự gắn bó này.
Mối
quan hệ văn hóa giữa Trung Hoa và Ấn Độ được thảo luận trong chương 6.
Nguyên bản Anh ngữ của bài này là “Passage to India”, đăng trong The New
York Review of Book, Volume 51, Nummer 19, December 2004.
Dù
không luận giải trực tiếp Phật giáo có thể đóng góp cho phát triển dân
chủ tại nhiều nước trên thế giới. Tinh thần vô úy trước bạo lực, nhiệt
tình thảo luận công khai trước những bất đồng, sẵn sàng chấp nhận phê
bình để sửa sai là một trong những truyền thống đặc sắc của Phật giáo mà
thế giới có thể học hỏi và áp dụng vào những cải cách chánh trị trong
tương lai.
Vì
các giá trị Phật pháp có khả năng khai sáng mà tác phẩm mang lại cho
người đọc và vì những kiến thức Phật giáo mang tính cẩm nang mà các tác
giả đã gửi gắm trong tác phẩm này, tôi trân trọng kính giới thiệu đến
quý độc giả trí thức gần xa. Hy vọng rằng tác phẩm này góp phần soi sáng
những vấn đề thời đại mà tất cả chúng ta đang quan tâm và tìm giải
pháp.
Quý Phật tử có thể mua sách tại phòng phát hành Đạo Phật Ngày Nay, 86 Nguyễn Chí Thanh, P. 3, Q. 10, TP. HCM. ĐT: 083894121.