Từ
chiều hôm trước chị Ba Mén đã dặn xe ôm đưa chị ra bến xe đò miền Tây 
vào bốn  giờ sáng. Tuy trời còn tối đen thế nhưng người đã đông, chen 
chúc, khệ nệ.
Quang  cảnh bến xe ngày hai mươi tám Tết có khác, thật ồn ào, tiếng 
người gọi nhau, trẻ  con khóc la. Ánh đèn pha của những chiếc xe xếp 
thẳng hàng chiếu vào những đám  bụi mù cuồn cuộn bốc lên từ những bước 
chân người hối hả. Một tay xách túi quần  áo, một tay xách một giỏ lớn 
đầy quà bánh ngày Tết, chị Ba Mén có vẻ nôn nóng,  gặp người lơ xe nào 
cũng hỏi :
- Chú em ơi !  Xe Cà Mau đậu chỗ nào vậy chú ?
Chị Ba Mén đã ngoài năm mươi, người tròn trịa, nặng nề, trèo lên 
chiếc xe Phương  Trang đã gần đầy khách. Chị vừa tìm được đúng số ghế, 
lay hoay xếp cái túi xách  đựng quà Tết xuống sàn xe, chưa kịp ngồi thì 
đã thấy một phụ nữ còn trẻ, tay bế,  tay dắt cũng tìm đến hàng ghế của 
chị. Người phụ nữ chỉ độ hơn hai mươi, bế một  đứa bé còn đỏ hỏn, một 
đứa khác độ lên hai nắm chặt lấy bâu áo của mẹ. Người phụ  nữ ngồi xuống
chiếc ghế bên cạnh, đặt đứa bé lên đùi, thở phào nhẹ nhõm. Đứa lớn  là 
một bé gái chen vào giữa hai hàng ghế và đứng tựa vào hai đầu gối của 
mẹ.
Chiếc xe chật ních hành khách và hàng hóa, lắc lư và nặng nề ra khỏi 
thành phố.  Chị Ba Mén liếc nhìn sang bên cạnh, thấy người phụ nữ đang 
cho con bú, đứa bé  gái thì gục đầu lên đùi mẹ ngủ say. Cảnh tượng đó 
khiến chị Ba cảm thấy tủi thân.  Chẳng những chưa hề được cái diễm phúc 
làm mẹ mà chị cũng chưa hề được một người  con trai hay đàn ông nào để ý
đến. Đôi khi chị cũng ước mơ có một tổ ấm gia đình,  được làm vợ, làm 
mẹ, thế nhưng tất cả những thứ ấy cũng chỉ là ước mơ, những ước  mơ ngày
càng phai mờ với thời gian và tuổi tác. Thật vậy gần bốn mươi năm giam 
mình trong cái xó bếp nóng nực và nồng nặc mùi thịt cá, khô mắm, dầu 
mỡ, khói  than... của một quán cơm bình dân chật chội ở đầu một con hẻm 
trong khu chợ Vườn  Chuối, không mấy khi chị có dịp giao du hay quen 
biết với ai cả. Mỗi năm vào dịp  Tết quán cơm đóng cửa vài ngày và đấy 
cũng là dịp duy nhất chị được về thăm mẹ ở  tận Năm Căn, Cà Mau.
Xe đến Trung Lương thì trời cũng bắt đầu ưng ửng sáng. Bất chợt xe 
thắng mạnh vì  đèn đỏ, đứa bé gái té lọt xuống sàn xe giữa hai chân của 
người phụ nữ. Nó sợ hãi  khóc ré lên. Thấy vậy chị Ba bèn nói với người 
phụ nữ :
- Nè chị Hai ! Để tui ẳm nó lên ngồi kế bên tui nghe chị !
- Nhờ Dì ẳm nó lên dùm con, đứng lâu mỏi chân nó té.
Chị Ba Mén ẳm đứa bé lên, thế nhưng ghế thì hẹp, mông chị lại to lấn 
sang cả ghế  của người thiếu phụ, không còn chỗ nào cho đứa bé ngồi. Chị
đành đặt nó lên đùi  chị. Đứa bé nín khóc, nhìn chị rồi đặt đầu lên 
ngực chị và tiếp tục lim dim ngủ  mà không e dè gì cả. Lần đầu tiên 
trong đời có một đứa bé gục đầu lên ngực, chị  Ba Mén cảm thấy một xúc 
cảm là lạ dâng lên trong lòng mình, dịu dàng và trìu mến.  Một thời tuổi
nhỏ bỗng hiện lên với chị, những kỷ niệm của quá khứ cứ thế mà  theo 
nhau lùi về xa hơn và xa hơn nữa...
Ấp Tắc Biển, cách thị xã Năm Căn hơn mười cây số về phía Nam, nằm ở 
bờ bên kia  của con sông Cửa Lớn, một nơi hoang vu, sình lầy và muỗi 
mòng. Từ Tắc Biển chỉ  cần chèo thêm khoảng mười cây số nữa theo mấy con
rạch nước mặn qua các ấp Ngọc  Hiển, Rạch Gốc, Kinh Ba là đến biển, nơi
tận cùng của mũi Cà Mau, một nơi quanh  năm lụt lội, chỗ thì lỡ, chỗ 
thì bồi. Mỗi ấp trong vùng cũng chỉ được vài chục  mái nhà lá, cất trên 
những gò cao. Chung quanh toàn là những bãi lầy ngập nước.
Cách nay đã hơn năm mươi năm vào một đêm ba mươi tối trời, chị Tư 
Lượm loay hoay  chuẩn bị giao thừa. Nói là chuẩn bị thế nhưng thật ra 
thì cũng chẳng có gì để mà  chuẩn bị cả, vì cái chòi của chị nhỏ xíu chỉ
đủ kê một chiếc chõng tre và một  cái bàn nhỏ làm bàn thờ. Trên bàn có 
đặt một bát hương. Vài chiếc nồi nhôm móp  méo treo trên vách phía sau 
cái bàn. Hai cái lò đất nấu bằng củi bám đầy tro bụi  đặt trong góc nhà,
bên cạnh một đống củi. Không khí ngày Tết nếu có thì cũng chỉ  ở trong 
lòng chị mà thôi. Tuy chẳng có gì gọi là giao thừa thế nhưng chị Tư cũng
cứ cảm thấy bồn chồn và nôn nao trong lòng, chị nghĩ rằng năm mới sắp 
đến biết  đâu cũng sẽ mang lại một chút đổi thay nào đó cho cuộc đời 
mình. Chị Tư Lượm ôm  thằng con trai tám tuổi của chị vào lòng và nhìn 
ra cửa chòi, một vùng hoang vu,  lau sậy và ngập nước trải rộng đến chân
trời.
Chín năm trước đó chị Tư Lượm và người chồng là anh Tám Nghiệp đến 
định cư ở ấp  Tắc Biển. Hai vợ chồng gốc ở Cái Tắc Cần Thơ xuống làm 
mướn ở thị xã Năm Căn.  Chiến tranh ngày càng gia tăng, nhiều gia đình 
trong các vùng xa bỏ ruộng dọn đi  nơi khác. Hai người tìm được một gò 
đất bỏ hoang ở ấp Tắc Biển, họ bèn cất chòi,  khai mương, làm rẫy, nôm 
cá, đặt lờ... để kiếm ăn qua ngày. Một năm sau, hai  người sinh được một
đứa con trai và đặt tên là Hên. Chiến tranh ngày càng trở  nên khốc 
liệt, bom đạn triền miên, chết chóc xảy ra hàng ngày. Nhiều người đàn  
ông, thanh niên ở các ấp chung quanh thường đến rủ rê, anh Tám nghe cũng
bùi  tai. Lúc đầu anh bỏ gia đình theo họ vài ngày, sau đó thì đi lâu 
hơn, có khi cả  tháng mới về. Chị Tư ở nhà nuôi con.
Thế nhưng một hôm anh Tám ra đi và không thấy trở về nữa. Năm năm 
sống nhẫn nhục  với thằng con trai nhỏ cũng đã quen. Đêm giao thừa năm 
nay chị thắp ba cây nhang  cắm vào bát hương trên bàn khấn vái ông bà và
cầu mong cho anh Tám được bình yên  dù là đang ở nơi nào. Sau đó chị 
chui vào mùng, thằng Hên đã ngủ say. Vừa thiu  thỉu ngủ thì bỗng chị 
nghe thấy có tiếng người gọi thật khẽ :
- Lượm ơi Lượm ! Anh về nè em !
Chị Tư tưởng mình nằm mơ, mở mắt lắng nghe.
- Lượm ơi ! Mở cửa cho anh, Tám Nghiệp của em về thăm em nè !
Chị Tư bật dậy, chui khỏi mùng, phóng ra cửa. Chị kéo mạnh chiếc cửa 
chòi đan  bằng tre, bóng anh Tám hiện ra giữa khung cửa, sừng sững, yên 
lặng, sau lưng anh  mờ mờ những đám ruộng sình mọc đầy lau lách. Chị Tư 
ôm anh Tám khóc hu hu. Anh  Tám ôm vợ và siết chặt trong vòng tay mình, 
càng siết chặt chị Tư càng khóc to  hơn. Anh Tám cũng khóc, những giọt 
nước mắt yên lặng của anh rơi lên tóc của chị  Tư. Trên cao bầu trời tối
đen, lấp lánh những vì sao vô tình.
Chị Ba Mén được hình thành trong một đêm giao thừa, trong vòng tay xa
lạ của một  người cha và bằng những giọt nước mắt tủi thân của một 
người mẹ. Chưa tờ mờ sáng  anh Tám đã từ giã vợ ra đi. Anh cho biết là 
tối hôm qua nhân dịp hành quân qua  vùng này, anh đã xin cấp chỉ huy về 
thăm vợ. Anh hôn lên đầu thằng con trai còn  đang ngủ say và vội vã ra 
đi. Chị Tư ngồi ở thềm cửa nhìn theo và ôm mặt khóc hu  hu. Trời hừng 
đông chị Tư trở vào nhà xếp mùng mới nhận thấy anh Tám đã bỏ quên  một 
chiếc nón bèo nhèo màu rêu, dính đầy bùn đất và hoen ố mồ hôi. Cầm chiếc
nón  chị lại khóc thêm một chập nữa. Sau đó chị vác cuốc đi làm công, 
dẫn thằng Hên  theo như mọi ngày.
Bảy tháng rưỡi sau đó, trong căn chòi một đứa bé gái sinh ra đời, 
thiếu tháng,  nhỏ xíu và èo uột. Chị Tư Lượm đặt tên nó là Mót, cái tên 
Mén chỉ là tên chánh  thức sau này. Khi con ba Mót được một tuổi, chị 
không còn phải đeo nó trên lưng  để đi làm nữa mà giao nó cho thằng Hên ở
nhà giữ em. Ba mẹ con sống giữa hai lằn  đạn phục kích và ruồng bố, bữa
đói bữa no. Khi con Mót được năm tuổi biết ở nhà  một mình, thằng Hên 
theo giúp đỡ mẹ trong các việc đồng áng.  Ba mẹ con cũng đủ ăn.
Thằng Hên càng lớn càng giống cha, mỗi lần nhìn nó chị Tư lại khóc. 
Mười bốn  tuổi nó đã biết nôm cá, đặt lờ. Mười lăm tuổi nó biết đi làm 
công thay cho mẹ  vào những ngày mẹ bệnh. Nó siêng năng, cày cuốc rất 
giỏi ai cũng thương. Thời  gian trôi nhanh, thằng Hên trở thành một 
thanh niên vạm vỡ. Trong một cuộc ruồng  bố, nó được đưa lên quận để làm
giấy tờ nhập ngũ vì đã mười tám tuổi. Thế là chị  Tư lại rơi vào cảnh 
đơn chiếc, mỗi ngày đi làm công, dắt con Mót theo để tập cho  nó biết 
các công việc đồng áng ruộng vườn.
Đổ dốc cầu Mỹ Thuận được vài cây số thì chiếc xe đò dừng lại ở một 
quán ăn lớn  để hành khách điểm tâm. Chị Ba Mén dắt đứa bé gái xuống xe 
và bước theo mẹ nó.  Chị Ba ăn chay trường nên chỉ gọi một ly trà đá, 
chị nói với người phụ nữ :
- Để dì ẳm con cho em ăn. Tội nghiệp, đeo hai đứa con leo nheo lóc nhóc thiệt là  khổ. Chồng em đâu sao không về chung ?
- Chồng con làm bảo vệ cho khách sạn, Tết đông khách không được về. 
Con ráng ẳm  hai đứa nhỏ về Tân Thành Cà Mau thăm bên nội bên ngoại.
Người thiếu phụ trẻ trao đứa bé trên tay cho chị Ba Mén. Chị ẳm đứa 
bé vào lòng,  tuy vụng về và ngượng nghịu thế nhưng không che dấu được 
sự thích thú hiện lên  trong đôi mắt chị. Chị mơ màng nghĩ đến người mẹ 
mình ở Tắc Biển cũng đã từng ẳm  bồng mình trong tay và cho mình bú. Thế
rồi những hình ảnh của con Ba Mót ngày  xưa cứ theo nhau hiện lên với 
chị. Năm đó chị được chín tuổi, một hôm mẹ hỏi :
- Mót à! Con muốn đi học không? Má không muốn con dốt nát như ba má.
Con Mót yên lặng không biết phải trả lời ra sao, cũng không hiểu học 
hành là gì,  một sự lo sợ mơ hồ thoáng hiện trong lòng nó. Vài hôm sau 
chị Tư Lượm bỏ một  ngày làm công, chèo xuồng qua ấp Tân Tiến ghi tên 
cho con Ba Mót đi học. Ở Tân  Tiến có một mái trường với khoảng hai mươi
đứa học trò. Thầy giáo là một người  trọng tuổi từ bên Năm Căn về đây 
sáng lập.
Đến Tân Tiến chị Tư cột xuồng dắt con Ba Mót đi gặp thầy giáo. Trường
là một mái  lá, bên trong là một đám học trò đủ mọi lứa tuổi đang bu 
quanh bốn hay năm cái  bàn xiêu vẹo. Trông thấy thầy giáo ngồi ở một cái
bàn nhỏ kê trong một góc lớp,  con Ba Mót hoảng sợ nắm vạt áo mẹ. Thầy 
giáo cất lời hỏi chị Tư :
- Con nhỏ tên gì đó chị ?
Câu hỏi thật tự nhiên nhưng khá bất ngờ đã gợi lại cho chị cảnh anh 
Tám bất thần  trở về với chị trong một đêm giao thừa cách nay đã chín 
năm, và đã để lại cho  chị một đứa con mót. Nước mắt chạy quanh, chị 
không muốn con gái mình phải suốt  đời mang cái tên gợi lại những kỷ 
niệm chua xót đó của đời mình, nên không biết  phải xử trí ra sao. Thầy 
giáo ngước lên thấy đôi mắt chị rưng rưng, thầy hoảng  hốt, lúng túng 
tìm cách trấn an :
- Tôi hỏi cháu tên gì để ghi vào sổ, có sao đâu mà chị lại buồn như vậy ?
Chị Tư không kịp suy nghĩ vội trả lời :
- Nó tên Mén !
- Tên Mén mà họ gì vậy chị ?
Câu hỏi lại càng làm cho chị Tư lúng túng thêm :
- Dạ thưa thầy tui cũng không biết. Từ ngày tui lấy ảnh tui cũng chỉ biết ảnh  tên Tám Nghiệp.
Thầy giáo lại hỏi :
- Vậy chị họ gì ?
- Thầy hạch hỏi làm chi, tui cũng không biết luôn. Cha mẹ chết sớm ở với dì, lớn  lên theo anh Tám cho tới nay...
Thầy giáo suy nghĩ một lúc rồi nói với chị Tư :
- Tôi ghi đại cho nó họ Nguyễn, chị chịu không ?
- Nó có tên có họ đàng hoàng là phước đức ông bà để lại rồi. Tui nào có dám chê  khen gì.
Kể từ đó con ba Mót mang tên là Nguyễn Thị Mén. Cái tên cũng khá phù 
hợp với vóc  dáng ốm yếu và nhỏ thó của nó. Con Mót đứng nép bên chân 
mẹ, ngơ ngác và sợ hãi.  Nó cũng chẳng hiểu là kể từ ngày hôm nay nó có 
thêm một cái tên mới là Mén.
Tắc Biển cách Tân Tiến hơn ba cây số. Mỗi ngày con Mén chèo xuồng đi 
học, chị Tư  đi làm công. Những ngày mưa bão lụt lội, không ai mướn, chị
Tư phải mượn gạo mà  ăn. Con mén cũng không đi học được. Hai mẹ con 
ngồi chồm hổm trên chiếc chõng  tre nhìn ra trời mưa và nước ngập mênh 
mông. Những hình ảnh đó thỉnh thoảng vẫn  hiện lên với chị Ba Mén khiến 
chị cảm thấy xót xa và thương mẹ vô cùng. Trong  những dịp như thế chị 
Tư thường kể chuyện đời mình cho con Ba Mén nghe. Chị trỏ  chiếc nón vải
bèo nhèo dính bùn đất và hoen ố mồ hôi cài trên vách ở đầu chõng  tre 
và nói với nó :
- Đó là cái nón mà tía mày vì ra đi hấp tấp đã bỏ quên lại cho má trong một đêm  giao thừa.
Cạnh bên chiếc nón có cài thêm một gói thuốc lá hút dở dang. Sự tích 
về gói  thuốc lá thì con Mén còn nhớ. Anh Hai Hên của nó nhập ngũ và hai
năm sau có trở  về thăm mẹ và thăm nó một lần. Khi ra đi anh nó đã bỏ 
quên gói thuốc lá trên bàn,  bên trong còn lại tám điếu. Lúc đó nó đã 
bảy tuổi, không những nó còn nhớ gói  thuốc lá anh nó bỏ quên mà còn nhớ
cả câu nói mà anh nó đã nói với mẹ trước khi  ra đi :
- Má à, đi lính nhớ nhà con bắt chước bạn bè hút thuốc, uống bia. 
Lương lính  không đủ xài, con không có tiền mua quà bánh gì cho má hết. 
Nhờ lãnh thêm chút  tiền thưởng Tết nên con mua vé xe đò về thăm má. Con
mong ngày nào hết chiến  tranh sẽ trở về Tắc Biển làm ruộng nuôi má và 
em con.
Tuy nói thế nhưng thật ra anh nó cũng có mua cho nó một gói kẹo dừa 
thật to. Hai  mẹ con thỉnh thoảng đem ra ăn, mỗi người một cục.
Qua khỏi Cần Thơ, chiếc xe Thiên Trang dừng lại để hành khách ăn 
trưa. Chị Ba  Mén moi trong giỏ quà Tết một hộp xôi và dắt đứa bé gái 
bước theo mẹ nó xuống xe.  Trời nắng gắt, mọi người có vẻ bơ phờ, ít trò
chuyện hơn so với lúc ban sáng khi  xe dừng lại để điểm tâm. Khoảng một
giờ sau thì người lơ lại gọi hành khách lên  xe. Trong xe mát rượi nhờ 
có điều hòa không khí, hành khách lim dim. Chiếc xe  tiếp tục lăn bánh 
trên Quốc Lộ Một tiến về Cà Mau thế nhưng đầu óc của chị Ba  Mén lại cứ 
ngược trở về quá khứ.
Mẹ chị kể rằng ngày còn thanh niên dưới thời quân đội Pháp, cha chị 
cũng đã từng  bị bắt lính, thế nhưng chân bên trái có tật nên được thả 
về. Cha mẹ chị gặp nhau  trên một cánh đồng lúa ở Cái Tắc khi hai người 
đi làm công. Cả hai rủ nhau xuống  lập nghiệp ở Cà Mau. Lúc đó không 
biết ai đã kể chuyện về cái xứ Đà Lạt cho cha  chị nghe mà theo lời mẹ 
kể lại thì cha chị lúc nào cũng mơ ước được sống trên đó.  Cha chị bảo 
rằng ở Đà Lạt có núi cao chót vót, khí hậu mát lạnh, có hoa thơm cỏ  lạ 
bốn mùa. Đà Lạt có thung lũng Tình Yêu, Suối Vàng, thác Cam Ly hùng vĩ, 
hồ  Xuân Hương thơ mộng, những cánh rừng thông bát ngát. Nhà cửa toàn là
biệt thư  nguy nga và lộng lẫy. Mọi người đều giàu có, lên đó kiếm 
miếng ăn nhất định là  phải dễ dàng. Thế nhưng trên thực tế thì cha mẹ 
chị lại lưu lạc xuống tận Năm  Căn, cất chòi trên một gò đất bỏ hoang ở 
Tắc Biển, một vùng quanh năm ngập lụt,  lau sậy mịt mù và muỗi mòng dầy 
đặc. Mẹ chị thường nói với chị :
- Tía mày lúc nào cũng mơ ước đưa tao lên sống ở Đà Lạt đầy thơ mộng,
rốt cuộc  lại dẫn tao về lập nghiệp ở cái gò đất này. Bước ra khỏi nhà 
là lội sình tới đầu  gối.
Năm Căn thuộc tỉnh Cà Mau là thị xã cuối cùng nằm về phương Nam trên 
Quốc Lộ  Một. Con lộ dài nhất nước này chấm dứt ở bến đò Năm Căn. Con đò
nối liền Năm Căn  với bờ bên kia của con sông Cửa Lớn mở ra một vùng 
đất thấp mênh mông.
Chiếc xe Thiên Trang lắc lư tiếp tục lăn bánh dưới ánh nắng gay gắt, 
chị Ba Mén  nhìn sang bên cạnh và giật mình ! Người thiếu phụ ngủ say, 
nghẹo đầu sang một  bên, miệng há hốc, đứa bé cũng nhả vú mẹ ngủ say, 
nước miếng lòng thòng. Nguyên  một bên ngực của người thiếu phụ để lộ ra
bên ngoài, căng tròn và trắng phếu.  Chị Ba khe khẽ kéo ngực áo của 
người thiếu phụ để che bớt lại. Sáng nay khi mới  lên xe và ngồi bên 
cạnh người thiếu phụ với hai con, chị Ba Mén cảm thấy một  chút tủi thân
nào đó trước cái số phận hẩm hiu không được làm mẹ của mình, thế  nhưng
cảnh tượng trước mắt đã khiến cho chị phải bàng hoàng. Chị cảm thấy xót
thương cho thân phận người phụ nữ.
Thế rồi năm đó chiến tranh chấm dứt, con Ba Mén được mười lăm tuổi, 
nhưng vẫn èo  uột, thấp bé như một đứa trẻ mười hai. Một hôm có một 
người lạ tìm đến căn chòi  của chị Tư Lượm và đưa cho chị một lá thư 
viết tay. Con Ba Mén đọc thư cho mẹ  nghe. Trong thư người viết tự giới 
thiệu mình là Tư Nghĩa, trước đây ở ấp Ngọc  Hiển, cách Tắc Biển hơn ba 
cây số. Chị Tư Lượm có biết người này. Trong thư anh  Tư Nghĩa cho biết 
trước đây mình là bạn đồng ngũ với chồng chị là anh Tám Nghiệp.  Vì bị 
thương nên anh được đưa về hoạt động ở Sài Gòn. Nay đất nước hòa bình 
anh  muốn giúp con Ba Mót có chút tương lai hầu giúp đỡ chị. Trong ba 
ngày nữa vợ anh  sẽ xuống dắt con Ba Mót lên Sài Gòn, và anh sẽ lo hộ 
khẩu cũng như công ăn việc  làm cho nó. Chị Tư Lượm biết anh Tư Nghĩa là
người tốt, ngay thẳng, phần chị thì  đã yếu, không biết còn đi làm công
được đến ngày nào. Chị đành bấm bụng mà giao  con Ba Mót cho vợ anh Tư 
Nghĩa.
Chiếc xe đò Phương Trang dừng lại ở một quán ăn để hành khách giải 
lao. Hai đứa  nhỏ giật mình thức giấc khóc la. Chị Ba Mén cảm thấy toàn 
thân ê ẩm, bước xuống  xe thật khó khăn. Giam mình trong một cái bếp 
chật hẹp như một chuồng gà gần bốn  mươi năm, con Ba Mén ốm yếu và gầy 
còm trước đây nay đã trở thành một người đàn  bà sồn sồn, tướng đi nặng 
nề, lạch bạch, lắc lư như một con gà mái dầu.
Gian bếp được hơn mười thước vuông, góc trái là nhà vệ sinh, bên cạnh
có kê hai  thùng phuy đựng nước. Giàn bếp gồm có bốn lò nấu bằng gas. 
Bốn vách bếp đều có  kệ chất đầy mắm muối, gia vị, chai lọ, chén bát, 
xoong chảo, nồi niêu đủ cỡ...  Đấy là cái thế giới của chị Ba Mén. Tuy 
chật hẹp thế nhưng cái thế giới đó cũng  không đến nỗi quá tẻ nhạt. Mỗi 
ngày có bốn cô gái vào trạc tuổi hai mươi đến  giúp việc, hai cô phụ 
bếp, hai cô chạy bàn. Chẳng những họ là nguồn thông tin  của chị về 
những gì xảy ra bên ngoài bốn vách tường của cái bếp quanh năm ướt át  
và nhơ nhớp, mà còn là một nguồn hiểu biết giúp cho chị học hỏi thêm. 
Bốn cô vừa  làm vừa bàn với nhau về các vở cải lương, các phim chuyện 
tràng giang đại hải  của Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc... mà
họ xem trên truyền hình hay  trong các đĩa DVD. Đấy là các chuyện cô 
này yêu cậu kia, cậu kia thương cô nọ,  ghen tuông, gây cấn, éo le, mưu 
mô, lường gạt, hận thù, nước mắt... Chị Ba Mén  cũng tham gia vào các 
câu chuyện ấy và bàn cãi rất hăng. Tâm hồn của con bé Ba  Mén quê mùa và
thật thà nơi ấp Tắc Biển ngày xưa nay nhờ đó cũng đã trở nên  phong phú
hơn. Đời sống tình cảm của chị Ba Mén cũng chỉ có thế, một chút tưởng  
tượng dựa vào những câu chuyện yêu thương do các cô phụ bếp và chạy bàn 
kể lại.
Chị học bếp với người chủ trước, và người này nay đã qua đời. Người 
chủ hiện tại  là con gái lớn của bà chủ trước. Quán đông khách là nhờ 
những món do tay chị nấu.  Các món mắm kho, canh chua, thịt ram, sườn 
nướng và nhất là món lòng heo luộc  chấm mắn nêm là các món ăn khách 
nhất. Mỗi ngày chính chị phải đảm đang các món  này, không ai thay thế 
được. Thế rồi với thời gian chị cũng đã an phận với cái  thế giới thu 
hẹp đó. Đôi ba tháng một lần chị gởi tiền về cho mẹ ở Tắc Biển. Chị  Tư 
Lượm, mẹ của con Ba Mót ngày xưa nay đã trở thành một bà lão gần tám 
mươi,  gầy nhom, lúc nào cũng tư lự, đôi mắt lem nhem thoáng hiện những 
nét buồn u uẩn.
Một hôm có một bà khách quen đã trọng tuổi, nhà ở gần đó đến quán ăn 
cơm. Hôm đó  đã xế trưa, quán vắng khách, chị Ba cũng xong việc, hai 
người lân la nói hết  chuyện này lại bắt sang chuyện khác. Sau cùng bà 
khách kể cho chị Ba Mén nghe về  một ngôi chùa nhỏ tên là thiền thất 
Phật Đà ở trong một con hẻm phía bên kia  đường, cách quán cơm khoảng 
vài trăm thước. Thầy trụ trì là một vị sư già thuyết  giảng rất hay. 
Thầy chuyên giảng kinh Pháp Cú. Kinh gồm bốn trăm hai mươi ba  tiết, mỗi
ngày thầy giảng một tiết, khi nào giảng hết thì thầy lại giảng lại từ  
tiết đầu. Chị Ba Mén chẳng hiểu Đạo Phật là gì cả nhưng cũng muốn đến 
nghe một  lần cho biết. Một hôm chị dọn dẹp bếp núc xong, tắm rửa thay 
quần áo sạch sẽ và  tìm đến thiền thất Phật Đà.
Bỏ dép bước vào gian chính điện nhỏ xíu, chị Ba Mén nhìn lên bàn thờ 
Phật. Giữa  bông hoa và những ngọn nến lung linh là một pho tượng Phật 
thật lớn trong tư thế  ngồi thiền, vẻ uy nghi và thanh thản. Một vị thầy
già gầy nhom ngồi tréo chân  trên một tấm phản nhỏ đặt trước bàn thờ. 
Chung quanh chị hơn ba mươi người đang  ngồi yên lặng, hướng vào vị 
thầy, vẻ mặt họ thật thanh thản và thành kính. Trước  cảnh tượng đó chị 
Ba Mén bàng hoàng cả người, chị có cảm giác như đang bước vào  một thế 
giới khác, một thế giới thật yên lặng và an bình.
Chị chưa biết phải xử trí ra sao thì ngay lúc đó có một chú tiểu từ 
phía sau bàn  thờ Phật bước ra tiến đến gần chị, vái chị một vái và trao
cho chị một cái gối  nhỏ và ra hiệu bảo chị hãy dùng gối để ngồi. Chị 
đặt gối xuống chiếu và ngồi lên  như một cái máy. Không ai để ý đến chị,
thế nhưng chị cảm thấy an tâm một cách  lạ thường. Trong gian chánh 
điện chật hẹp tỏa rộng một bầu không khí thật an  bình và thân thiện.
Độ mười lăm phút sau thì vị thầy đánh một tiếng chuông báo hiệu buổi 
tập thiền  chấm dứt. Chú tiểu phía sau bàn thờ Phật lại xuất hiện với 
một cái mõ lớn và  ngồi xuống bên cạnh vị thầy. Tất cả mọi người tụng 
một bài kinh ngắn, chú tiểu  gõ mõ đánh nhịp, vị thầy thỉnh thoảng đánh 
một tiếng chuông. Chị Ba Mén cảm thấy  mình lọt vào một thế giới khác, 
một thế giới thật êm ả, thiêng liêng và hoàn  toàn xa lạ đối với chị 
trước đây. Ít nhất thì cái thế giới đó cũng khác với cái  xó bếp ngột 
ngạt của chị, với cái quán cơm ồn ào và hỗn độn với những người  khách 
đến ăn còn đang đói, hoặc đã no bụng và hả hê.
Sau thời kinh, các người đến chùa đứng lên và hướng vào bàn Phật. Chú
tiểu và vị  thầy thì đứng trước bàn thờ Phật và hướng vào họ, hai bên 
đối mặt với nhau. Vị  thầy cầm một cái chuông nhỏ đánh khẽ một tiếng, 
tất cả mọi người mọp xuống để  lạy. Vị thầy lạy người đến chùa là một 
cách trả lễ cho Phật, và đồng thời cũng  là để tỏ lòng kính trọng họ như
những vị Phật. Người đến chùa thì lạy Phật và  cùng lúc cũng lạy cả vị 
thầy như người đã thay Phật để hướng dẫn họ. Chị Ba Mén  cũng bắt chước 
mọi người mọp xuống để lạy, vụng về và ngượng nghịu. Thế nhưng  đồng 
thời thì chị cũng cảm thấy có một sức mạnh nào đó đang manh nha và chớm 
nở  trong lòng mình, một sức mạnh thật khiêm tốn nhưng bao la và tràn 
ngập yêu  thương. Khi úp mặt lên chiếu để lạy, chị cảm thấy mình trở nên
thật nhỏ bé và vô  nghĩa, cả cái thân xác cục mịch và nặng nề của mình 
hình như cũng tan biến hết.
Sau ba lạy thì vị thầy tiến đến gặp chị Ba và cất lời với chị :
- Có lẽ chị đến đây lần đầu ? Chị cứ tự nhiên, nhà của Phật là nhà 
của mọi người.  Mỗi tối đều có một buổi ngồi thiền kéo dài nửa giờ, sau 
đó là phần thuyết giảng.  Nếu chị cần biết thêm điều gì thì cứ hỏi nhé !
Vị thầy ngồi xuống trước bàn thờ Phật, các người đến chùa ngồi thành một vòng  chung quanh. Vị thầy cất lời :
- Hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem tiết thứ mười chín trong Kinh
Pháp Cú  muốn nói lên điều gì. Trong câu này Đức Phật nhấn mạnh đến vai
trò của sự chú  tâm và cảnh giác. Ngài nói rằng một người mê muội, 
thiếu chú tâm và cảnh giác  cũng tương tự như một người chăn bò đếm đàn 
bò của người khác. Sự chú tâm và  cảnh giác giúp chúng ta nhận thấy 
những gì đang xảy ra chung quanh hầu giúp  chúng ta biết trở về với con 
người đích thật của chính mình.
Vị thầy còn giảng thêm rằng sự chú tâm và cảnh giác đối với những gì 
mình cảm  nhận được bằng thân xác, bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và kể cả 
những xúc cảm và sự  suy nghĩ của mình, sẽ giúp mình hòa nhập với thế 
giới chung quanh dễ dàng, thích  nghi và đúng đắn hơn.
 
Tuy không hiểu hết ý nghĩa của những câu giảng đó, thế nhưng những gì
vị thầy  vừa nói cũng đã biến cải cả đời sống tinh thần của chị Ba Mén 
và cũng đã đánh  dấu một khúc quanh lớn trong cuộc đời của chị. Từ trước
đến nay chị vẫn sống,  thế nhưng không hề ý thức được là mình đang 
sống. Chị không hề cảm nhận được sự  sống bên trong nội tâm mình cũng 
như sự sống đang biến động trong bối cảnh chung  quanh. Mỗi ngày chị làm
các công việc thường nhật trong bếp như một cái máy. Lắm  lúc chị cũng 
không ý thức được là mình đang làm gì và vừa làm xong được những gì.  
Mỗi sáng chị chờ các cô phụ bếp đến để cùng đếm với họ thật hăng say và 
ồn ào  những đàn bò trong đầu họ.
Kể từ khi được nghe giảng về sự chú tâm trên đây, chị Ba Mén thường 
xuyên đến  chùa và tham gia vào các buổi ngồi thiền và nghe giảng, chỉ 
hôm nào mệt lắm thì  chị mới không đến chùa. Những lời thuyết giảng của 
vị sư già đã mang lại cho chị  một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều 
yêu thương hơn. Chị cảm thấy gian bếp  quả là một nơi nhơ nhớp và hôi 
hám, nào là mùi khô, mùi mắm, mùi cá, mùi lông gà,  huyết heo, lòng heo,
mùi kho nấu, chiên xào... bốc lên nồng nặc. Hình ảnh những  con gà dẫy 
chết khi bị cắt cổ, những con cá dẫy dụa khi bị đập đầu, tiếng dao  chặt
xương, tiếng mỡ sôi trong chảo, kể cả đôi khi tiếng nước tiểu của khách
hàng rót vào lỗ cầu trong góc bếp cũng nghe rõ mồn một..., tất cả đã 
tạo ra một  sự kinh hoàng trong gian bếp chật hẹp của chị.
Những lời thuyết giảng của vị thầy già thật ra không hề tạo ra cho 
chị Ba Mén  những khả năng nhận xét mang lại một sự sợ hãi hay kinh tởm 
nào cả, mà đúng hơn  đã giúp chị nhận thấy được bản chất khổ đau của 
những gì đang xảy ra chung quanh  chị, phản ảnh bởi sự thèm khát miếng 
ăn của con người, bởi bản năng dục tính  khích động và xô đẩy họ rơi vào
những xúc cảm bấn loạn, những hành động điên rồ  và u mê. Ý thức được 
các điều đó chị Ba Mén liền ăn chay và không còn tham gia  vào các câu 
chuyện tình yêu gây cấn do các cô phụ bếp và chạy bàn kể chuyện với  
nhau. Mỗi khi trông thấy chậu lòng heo mà mỗi ngày chị phải rửa và phải 
luộc thì  chị đều cảm thấy một chút đau nhói trong lòng. Mỗi khi nghe 
các cô phụ bếp và  chạy bàn hăng say thuật lại hồi thứ năm mươi hay sáu 
mươi của một bộ phim Hàn  Quốc trình chiếu tối hôm qua trên truyền hình,
thuật lại chuyện cô này thương  cậu kia, cậu kia hất hủi cô nọ..., thì 
chị Ba cảm thấy thương hại các cô phụ bếp  và chạy bàn vô cùng. Suốt 
ngày đi làm cực nhọc, tối đến thì ngồi xem và đếm  những đàn bò trong 
đầu những diễn viên trên màn ảnh truyền hình.
Chị Ba Mén đảm trách công việc rửa ráy và luộc lòng heo đã từ mấy 
chục năm nay,  từ khi chị còn là một cô bé ốm yếu. Ngồi trên chiếc ghế 
đẩu, chị đặt thau lòng  heo trước mặt, khép hai chân vào nhau, gác cằm 
lên hai đầu gối, chị dùng dao cắt  phèo, bao tử, ruột già, gan, dồi 
trường, riêng ra thành từng phần. Chị nặn bớt  thức ăn đã tiêu hóa nửa 
chừng trong ruột non để phèo bớt đắng, bởi vì các thức  ăn đó đã được 
pha trộn với mật và các dung dịch tiêu hóa khác tiết ra từ gan và  bao 
tử của con heo. Ngày nay thì chị phải ngồi với một tư thế khó khăn và 
kém  thoải mái hơn nhiều, phải dạng hai chân vì bụng chị to quá. Chị kéo
thau lòng  heo sát vào bụng và mỗi khi nhìn xuống thì chị lại nhận thấy
bụng chị che khuất  một nửa thau đựng bộ đồ lòng của con heo. Mỗi khi 
rửa khúc dồi trường trắng phếu  thì chị lại liên tưởng đến khúc dồi 
trường trong bụng chị.
Trước đây trong bếp có một con chuột cống rất tinh ranh, không ai 
đuổi bắt hay  bẫy được nó. Một hôm chị đang chặt thịt và để ý thấy con 
chuột ló đầu ra ở khe  hở giữa hai thùng phuy đựng nước. Chị giả vờ như 
không trông thấy nó và vẫn cứ  tiếp tục chặt thịt. Bất chợt nó phóng ra 
giữa sân bếp để tha một miếng thịt văng  ra khỏi thớt. Chị Ba Mén bèn 
ném ngay con dao phay đang cầm trên tay vào người  nó. Sống dao đập vào 
giữa lưng con chuột, nó ưỡn người, bốn chân co quắp và run  lên. Con 
chuột chết ngay sau đó, máu trào ra ở mũi và miệng. Chị Ba rất hãnh  
diện và khoe thành tích của chị với mọi người. Thế nhưng hôm nay khi 
chặt thịt  và liên tưởng đến chuyện ấy thì chị lại thương hại con chuột 
vô ngần. Hoàn cảnh  của nó thì nào có khác gì với hoàn cảnh của chị đâu,
cả hai đều phải tranh đấu  để kiếm miếng ăn. Nó thường rình rập nơi khe
hở giữa hai thúng phuy, còn chị thì  phải tự giam mình trong cái xó bếp
chật hẹp này từ mấy chục năm nay. Cái chết  của chị cũng đang xảy ra 
trong từng giây phút một, thế nhưng nhẹ nhàng và chậm  chạp hơn, không 
tức tưởi như cái chết của con chuột. Vào một lúc nào đó cái chết  của 
chị biết đâu cũng sẽ xảy đến thật đột ngột và đau thương như cái chết 
của nó ?  Suy nghiệm về những lời giảng của vị sư già, chị bỗng nhận 
thấy trước đây mình  đã sống như trong một giấc mơ, không hiểu biết gì 
cả, cũng chẳng ý thức được gì  cả. Nào chị có biết đến đàn bò trong đầu 
mình đâu để mà đếm. Chị chỉ nhìn thấy  đàn bò trong đầu của người khác.
Xe đến thị xã Cà Mau lúc nào không hay. Tiếng còi xe inh ỏi trên 
đường phố lôi  chị trở về với thực tại. Xuống xe, tay xách tay ôm, thế 
nhưng chị vẫn cố gắng  gọi xe taxi cho người phụ nữ ngồi bên cạnh, giúp 
cho cả ba mẹ con ngồi vào xe  cẩn thận, sau đó chị mới trèo lên chiếc xe
đò nhỏ đưa chị về Năm Căn. Đường ổ gà,  xe xóc mạnh, chị ôm giỏ quà vào
lòng. Trong giỏ có một chai rượu dâu Đà Lạt, bốn  lon bia Tiger và một 
gói thuốc lá hiệu Con Ngựa, và đặc biệt hơn hết là một hộp  yến sào bên 
trong có sáu hủ. Trời đã xế chiều và chị thì còn phải qua đò và đi  xe 
ôm về Tắc Biển.
Đứng chờ đò ở bờ sông Năm Căn, chị cảm thấy nôn nao trong lòng vì một
chốc nữa  đây chị sẽ được gặp lại mẹ sau một năm dài xa cách. Chị mơ 
màng nghĩ đến tối hôm  nay chị sẽ trịnh trọng đặt lên bàn thờ chai rượu 
dâu Đa Lạt pha phẩm đỏ và hương  dâu hóa học cạnh bên chiếc nón hoen ố 
mồ hôi để cúng cha, một người cha mà chị  không hề được biết mặt. Chị sẽ
đặt một gói thuốc lá mới hiệu Con Ngựa và bốn lon  bia Tiger bên cạnh 
gói thuốc lá Salem nhăn nhúm mà người anh mình đã bỏ quên  nhằm để đặc 
biệt cúng anh mình, một người anh đã từng bồng bế mình ngày nhỏ. Chị  sẽ
khui một lọ yến sào cho mẹ ăn. Chị nghe người ta nói rằng yến sào rất 
bổ cho  người lớn tuổi.
Đêm hôm nay chị sẽ chui vào mùng ngủ với mẹ trên chiếc chõng tre. Chị
sẽ gác đầù  lên chiếc ngực lép xẹp của mẹ để lắng nghe tiếng đập của 
tim mẹ và để cảm thấy  hơi thở âm ấm của mẹ luồn vào tóc mình... Bỗng 
nhiên một ý nghĩ lạ lùng hiện lên  trong đầu, chị chỉ muốn mãi mãi nằm 
trong bụng mẹ để lúc nào cũng được nghe thấy  tiếng tim mẹ đập và tiếng 
phổi của mẹ thở, chị không muốn sinh ra làm người làm  gì. Chị ước mơ 
một ngày nào đó sẽ cùng với mẹ hóa thành những áng mây trên trời.  Chị 
nghĩ thầm : Mong sao được trở về bụng mẹ, xin chớ sinh làm người, ước 
tan  vào hư vô... Những ý nghĩ kỳ quặc và lạ lùng đó khiến chị phải mỉm 
cười, thế  nhưng đồng thời thì nước mắt cứ trào ra và lăn dài trên đôi 
gò má phúng phính  của chị. Con đò máy đang xoay mũi để cặp bến. Trước 
mặt chị nước sông Cửa Lớn  xoáy cuồn cuộn và đục ngầu.
Một vài ghi chú của người viết
Một kiếp người thì nào có khác gì một chuyến xe. Thế nhưng có khi nào
chúng ta  tự hỏi rằng chuyến xe của đời mình sẽ đưa mình về đâu hay 
không ? Nếu ra bến xe  mua vé và bước lên xe thế nhưng chúng ta lại 
không biết là chuyến xe ấy sẽ đưa  mình về đâu, như thế có phải là đáng 
buồn hay không ? Sống nhưng không biết mình  sống để làm gì thì cũng 
tương tự như đang ngồi trong một chiếc xe đò đang chạy  nhưng lại không 
biết là nó đi đâu.
Cũng tương tự như thế, khi bước ra đường và gặp một người đang đi, ta hỏi người  này :
- Ông, bà, hay cô, chú... đang đi đâu đấy ?
Nếu người này trả lời là họ đi thế thôi và cũng chẳng biết là mình đi
đâu, thì  có phải đấy là một điều đáng để đau buồn hay chăng ?
Đối với Phật Giáo thì đi như thế gọi là « đi lang thang ». Tất cả 
chúng ta đang  đi lang thang trong một thế giới bất định, một thế giới 
lẩn quẩn, loanh quanh.  Cái thế giới đó Phật Giáo gọi là thế giới luân 
hồi hay samsara. Nguyên nghĩa  tiếng Phạn của chữ samsara là « một tổng 
thể đang chuyển động » hay « một đám  đông đang đi lại », hoặc nói một 
cách khác là « một đám người đang đi lang thang ».  Đi lang thang có 
nghĩa là bước đi trong một thế giới của ảo giác, trong một giấc  mơ 
triền miên. Trong giấc mơ đó, đôi lúc chúng ta cũng chợt tỉnh và nhận 
thấy  mình đang ở một nơi nào đó, thế nhưng có lúc chúng ta cũng lại cảm
thấy mình  đang ở một nơi khác.
Chúng ta lang thang trong một thế giới ảo giác chẳng qua vì chúng ta 
luôn chạy  theo những đàn bò của người khác để đếm và rồi quên mất đường
về. Cảnh giác,  thức tỉnh và chú tâm chính là cách giúp mình nhận thấy 
bản chất ảo giác của « thế  giới lang thang » và « bản chất u mê » trong
tâm thức để trở về với con người  đích thật của chính mình.
Bures-Sur-Yvette, 04.02.13
Hoang Phong