Tục ngữ Việt Nam chúng
ta có câu “ sanh ký tử quy, nghĩa là ; Sống gởi
trần gian, chết lại về”. Vậy khi chết chúng ta
đi về đâu? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, chỉ có
bậc Đại giác ngộ mới thấy rõ con đường đi này và chỉ
dạy cho chúng ta biết mà thôi. Đó là sáu con đường
mà chúng sanh qua lại mãi: địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, cõi Trời, Người, A-tu-la, còn gọi là sáu nẻo
luân hồi. Khi con người còn sống, gây tạo nhân gì
thì kết quả sẽ theo họ như thế ấy. Kết quả đó là
động cơ thúc đẩy con người sau khi chết, đi vào các
cảnh giới tương ưng trong sáu đường .
Chư Phật và Bồ tát
thương tất cả chúng sanh cứ mãi lang thang qua lại
trong sáu đường luân hồi này, nên lập ra rất nhiều
phương tiện để cứu giúp chúng sanh thoát ly cảnh
sinh tử, sanh về cảnh Phật, hưởng thọ phước lạc vô
biên, gia đình hiện đời được sự an lành hạnh phúc.
Thấy được sự lợi ích này, nên chúng tôi biên tập lại
những lời Phật, Tổ chỉ dạy, dựng lại bản phim tài
liệu TRỢ NIỆM VÀ CHUẨN BỊ KHI LÂM CHUNG ngõ hầu mong
cho tất cả kẻ còn và người mất đồng được an vui lợi
ích.
I .CÁC HIỆN TƯỢNG
TRƯỚC KHI NGƯỜI BỆNH TẮT THỞ
1. Trước khi tắt thở,
có người tay chân run rẩy, gân mạch co rút lại. Lúc
ấy chúng ta biết tạng phủ của người này đang vô cùng
đau đớn. Sự đau đớn đó thấm đến từng lỗ chân lông.
2. Có người trước khi
tắt thở, sắc mặt nhợt nhạt, hơi thở khò khè, thân
mình run rẩy. Ta biết lúc ấy lục phủ ngũ tạng của họ
lạnh buốt như băng tuyết, chịu muôn vàn đau khổ.
3. Có người trước khi
tắt thở, hơi thở ra rất nhiều, mà hơi hít vào lại
rất ít; da bị ửng đỏ, tinh thần mê man. Bấy giờ
người này sức lực suy kiệt dần dần.
Phần nhiều con người
trước khi tắt thở thường trải qua ba giai đoạn như
trên, rồi trút hơi thở cuối cùng ra đi. Người chết
rồi biểu hiện ra từng tướng trạng nơi khuôn mặt và
thân thể, qua đó chúng ta biết người đó sanh về cảnh
giới lành hay dữ.
I.1.
Người chết có những biểu hiện sanh vào địa ngục
- Có người trước khi
chết, đưa hai tay lên qườ quạng trên hư không.
- Có người trước khi
chết, kêu gào la khóc.
- Có người trước khi
chết, đi đại tiểu tiện ra ngoài mà không hay không
biết.
- Có người trước khi
chết, hai mắt nhắm lại không dám mở ra.
- Có người trước khi
chết, thường xoay mặt vào vách, hoặc úp mặt xuống
giường.
- Có người trước khi
chết, cố nằm nghiêng mà ăn, mình mẩy, miệng mồm hôi
hám.
- Có người trước khi
chết, hai chân run rẩy, sống mũi siêu vẹo.
- Có người trước khi
chết, hai mắt đỏ ngầu.
- Có người trước khi
chết, thân hình co rút lại.
Khi đó, hơi lạnh từ
trên đầu xuống đến bàn chân người bệnh, rồi hơi ấm
trụ nơi bàn chân. Trường hợp đó, ta biết người này
sẽ đọa vào cảnh giới địa ngục xấu ác.
I.2.
Người trước và sau khi chết có những biểu hiện
sanh vào ngạ quỷ
- Có người trước khi
chết, ưa lè lưỡi liếm môi.
- Có người trước khi
chết, thân hình nóng như lửa đốt.
- Có người trước khi
chết, khát nước, đòi ăn uống liên tục.
- Có người trước khi
chết, hai mắt trợn lên không nhắm lại.
- Có người trước khi
chết, không đi tiểu tiện mà đi đại tiện rất nhiều.
- Có người trước khi
chết, đầu gối bên phải lạnh trước.
- Có người trước khi
chết, hai bàn tay nắm cứng lại. Đây là biểu hiện của
lòng bỏn xẻn nuối tiếc của cải tài sản, vợ con…
Khi đó, hơi lạnh dần
dần đi xuống hoặc từ dưới bàn chân đi lên đến đầu
gối người bệnh, rồi hơi ấm dừng ngay đầu gối. Trường
hợp đó, ta biết người này sanh vào cảnh giới ngạ quỷ
xấu ác.
I.3.
Người trước khi chết có những biểu hiện sanh vào
súc sanh
- Tâm quyến luyến,
không muốn rời xa vợ con, chồng con, người thân.
- Có người trước khi
chết, tay chân co quắp lại.
- Có người trước khi
chết, thân mình toát ra mồ hôi.
- Có người trước khi
chết, nói nămg hổn loạn.
- Có người trước khi
tắt thở, miệng hay ngậm đồ ăn.
Khi đó, hơi lạnh từ
trên đầu xuống (có người lạnh từ dưới bàn chân lạnh
lên) rồi dừng lại ở bụng người bệnh, hơi ấm trụ tại
đây. Trường hợp đó, ta biết người này sanh vào cảnh
giới súc sanh đau khổ.
I.4.
Người trước khi chết có những biểu hiện sanh trở
lại làm người
- Có người trước khi
chết, lòng vui vẻ, miệng mỉm cười.
- Có người trước khi
chết, thân không bị các sự đau khổ hành hạ bức bách.
- Có người trước khi
chết, con cháu người thân thương yêu gần gũi.
- Có người trước khi
chết, dặn dò con cháu, hoặc để di chúc lại rõ ràng,
sáng suốt.
- Có người trước khi
chết, lòng tôn kính Phật Pháp Tăng tam bảo.
Khi đó, hơi lạnh từ
dưới chân lên đến ngực rồi hơi ấm trụ tại đây.
Trường hợp đó, ta biết người này sanh vào cõi Người.
I.5.
Người trước khi chết có những biểu hiện sanh về
cõi Trời
- người trước trong
suốt cuôc đời, lòng luôn quý mến mọi người.
- Có người trước khi
chết, tinh thần tỉnh táo.
- Có người trước khi
chết, thân thể không hôi thối.
- Có người trước khi
chết, sống mũi không siêu vẹo.
- Có người trước khi
chết, tâm không buồn giận, sợ sệt, chán nản.
- Có người trước khi
chết, không lưu luyến tài sản, của cải, nhà cửa, vợ
con.
- Có người trước khi chết, ngữa mặt mỉm cười mà đi
thật thanh thản.
Khi đó, hơi thở lạnh
từ dưới chân lên đến trán rồi hơi ấm dừng ở đó.
Trường hợp biểu hiện này rất tốt, ta biết người này
sanh về cõi trời.
I.6.
Người trước khi chết có những biểu hiện sanh về
cõi Đức Phật A-di-đà
- Có người trước khi
chết, tinh thần tỉnh táo,
- Có người trước khi
chết, biết trước ngày giờ ra đi.
- Có người trước khi
chết, tắm rửa thay quần áo.
- Có người trước khi
chết, niệm Phật không dứt
- Có người trước khi
chết, ngồi ngay thẳng mà đi.
- Có người trước khi
chết, mùi thơm lạ bay khắp phòng.
- Có người trước khi
chết, được hào quang Phật chiếu sáng vào thân thể.
- Có người trước khi
chết, nghe nhạc trời trổi lên giữa hư không.
- Có người trước khi
chết, tự nói ra bài kệ để dặn dò mọi người.
Khi đó, hơi lạnh từ
dưới lòng bàn chân lên đến đỉnh đầu rồi hơi ấm dừng
lại ở đây. Trường hợp đó, ta biết người này vãng
sanh về cõi Phật.
II. NHỮNG ĐIỀU
NGƯỜI BỆNH NÊN BIẾT VÀ CHUẨN BỊ
Sống và chết,
già và bệnh là quy luật tất nhiên, không ai có thể
tránh khỏi. Muốn thoát ly ra khỏi sự chi phối này,
không gì hơn là nương tựa vào giáo pháp của Đức Phật
mà hành trì tu tập. Có thực hành tu tập, chúng ta
mới chuyển hóa được những nỗi khổ niềm đau, bệnh tật,
nghịch cảnh v.v… trong hiện tại và được giải thoát
trong tương lai. Muốn được điều lợi ích này, đòi hỏi
quý vị phải có tâm kính tin vào Phật pháp vô biên,
có niềm tin kiên cố vào sự cứu độ của Phật A-di-đà,
bồ tát Quan Thế Âm, bồ tát Đại Thế Chí. Chúng ta
phải có ý chí tu tập, lòng dứt khoát phải buông bỏ
muôn duyên. Phật dạy, thế gian là vô thường, vạn vật
có sinh tất có diệt. Biết vậy, khi sống, ta nên
chuẩn bị cho sự ra đi của mình sao cho thật thanh
thản, không bịn rịn, không quyến luyến. Khi bệnh tật,
ta càng phải mạnh mẽ, quyết tâm gấp nhiều lần hơn
thế. Muốn vậy, không còn cách gì hơn là phải buông
bỏ tất cả những trói buộc của vật chất, tài sản như
tiền bạc, nhà cửa, đất đai, địa vị, danh lợi.. giao
lại cho con cháu vào lúc này, hoặc đem ra bố thí làm
phước, hoặc viết di chúc dặn dò…; cũng không luyến
ái người thân vợ, chồng, con cháu… Những điều như
vậy, quý vị nên làm ngay, vì chúng ta còn nắm giữ,
còn cố bám víu vào bất cứ vật gì, bất cứ ai ở thế
gian này, là còn làm chướng ngại cho sự ra đi vãng
sanh của mình. Nếu không buông bỏ những thứ vật chất
đó, người thân yêu đó, khi chết đi, chẳng những quý
vị cũng không cầm nắm mang theo ra đi được, mà bản
thân còn bị đọa lạc. Lúc ấy, người thân nào cứu được?
Không ai thương mình bằng chính mình thương mình,
không ai thương mình bằng chư Phật và Bồ tát, chỉ có
Phật và Bồ tát mới cứu mình thoát khỏi vòng sanh tử
luân hồi mà thôi. Cho nên quý vị phải có niềm tin
tuyệt đối vào chánh pháp, tin vào Tam bảo Phật Pháp
Tăng, chuyên tâm nhất ý trì niệm danh hiệu Phật A-di-đà,
một lòng cầu vãng sanh Tịnh độ.
Quý vị cần chú ý điều này. Khi còn sống ở đời, con
người không ai không có lỗi lầm, những lỗi lầm do cố
ý hoặc vô ý gây tạo ra. Ta nếu đã gieo thù kết oán
hoặc luyến ái yêu thương hoặc mắc nợ tiền bạc vật
chất… với người nào, hoặc với con cháu, vợ chồng,
người thân, thì lúc này nên giàn xếp hết, giải quyết
hết trước khi ra đi. Ta giải quyết bằng tấm lòng tha
thứ, bao dung cho hết thảy mọi người; bằng tất cả
sự ăn năn hối lỗi, chia xẻ bày tỏ với những người từ
lâu mình gây thù chuốc oán, hoặc với những ai tin
tưởng và thấu hiểu mình khi khỏe mạnh, đặc biệt là
những vị tin hiểu Phật pháp. Đồng thời, ta phải hết
lòng niệm Phật, cầu xin sám hối những tội lỗi xưa để
tâm thanh thản ra đi về cõi Phật.
Khi chưa bệnh hoặc đã bị bệnh, lúc nào ta cũng nên
tinh tấn niệm Phật, hết lòng tin tưởng vào sự gia
trì của Phật. Đừng bao giờ nghĩ rằng dùng thuốc sẽ
hết bệnh. Ngay cả, khi bệnh nặng có thể không cần
dùng thuốc, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Nếu thọ mạng
còn, thì nhờ oai lực của chư Phật gia trì mà ta được
hết bệnh, nhờ lòng thành mà dứt trừ các ác nghiệp
đời trước. Nếu thọ mạng hết, thì ta thanh thản đi về
cõi Phật A-di-đà.
Sự ra đi của
ta tốt hay xấu, chính yếu vẫn là nhờ tâm chân thành
của mình có hay không bên cạnh sự trợ duyên của
người thân trong gia đình và chư Tăng cùng các bạn
đạo.
III. NHỮNG ĐIỀU
GIA ĐÌNH NÊN BIẾT VÀ CHUẨN BỊ LÚC NGƯỜI BỆNH LÂM
CHUNG
Chúng ta được sinh ra
trong cuộc đời này, cha mẹ là là bậc đại ân nhân lớn
nhất đối với chúng ta. Thân thể, sự nghiệp của chúng
ta đều do ông bà cha mẹ truyền trao. Khi cha mẹ,
người thân của chúng ta bị bệnh đến lúc hấp hối,
bệnh nhân như đang đứng giữa ngã rẽ giữa quỷ, người,
thánh, phàm. Sự việc này nguy hiểm vô cùng, như ngàn
cân treo sợi tóc. Lúc này, trong gia đình anh em,
con cháu, dâu rể phải hết lòng thương yêu đoàn kết
với nhau, theo lời dạy của Phật và các bậc thiện
tri thức mà hết lòng hộ trì, chăm sóc người thân của
mình đúng với chánh pháp, thì người mất sẽ được lợi
ích, an vui; người sống sẽ được phước lạc vô biên.
Đó là cách trả hiếu lớn nhất và vẹn toàn hiếu đạo.
Lúc này, toàn bộ con cháu, người thân, quyến thuộc
trong gia đình phải giữ bình tĩnh, tốt nhất là niệm
Phật cho người bệnh, không nên khóc lóc, kêu la.
Muốn được điều lợi ích
cho người mất, xin quý vị hãy nghe theo những lời
chỉ dẫn sau đây:
1.
Người thân bị bệnh, gia đình phải tận tình chăm sóc,
hết lòng thương yêu và chia sẻ những khó khăn với họ,
đặc biệt là trong thời điểm này.
2.
Anh em con cháu và bệnh nhân khi sống khỏe mạnh đối
xử với nhau như thế nào, thì lúc này mọi người càng
cần phải có sự cảm thông cho nhau để đoàn kết chăm
lo, chiều ý để tâm người bệnh thấy đó mà vui vẻ
hướng tâm niệm Phật.
3.
Khi thấy bệnh tình trở nặng, con cháu, người thân
phải khuyên bệnh nhân nên buông bỏ hết mọi công việc,
chỉ hướng tâm niệm Phật cầu vãng sanh, phát khởi
lòng kính tin Tam bảo. Nếu người bệnh chưa quy y,
thì gia đình nên thỉnh chư Tăng, các bậc đức độ đến
quy y cho người ấy.
4.
Trong gia đình hoặc bạn bè, có người nào khi sống
gây oán thù với người bệnh, nếu không giải tỏa và
cảm thông cho nhau được, thì khi người bệnh hấp hối,
những người kể trên không được đến thăm nom, tiếp
xúc, vì dễ khơi dậy lòng sân hận của người bệnh,
khiến họ dễ bị đọa lạc. Cũng vậy, người nào được
người bệnh lúc còn khỏe mạnh yêu thương, gắn bó
không rời, thì khi hấp hối, người thân yêu ấy không
được đứng đối diện, sẽ tạo nên tình cảm luyến ái
khiến người bệnh không thể tự tại vãng sanh được.
5.
Người bệnh nằm ở bệnh viện, nếu người nhà thấy bệnh
tình họ khó qua khỏi được, thì nên lập tức đưa về
nhà, sắp đặt chỗ thanh tịnh, hướng cho họ niệm Phật.
Nếu thọ mạng của người bệnh còn, thì nhờ oai lực chư
Phật và Bồ Tát, bệnh tình sẽ thuyên giảm. Nếu thọ
mạng đã hết, thì người bệnh có thể ra đi an nhàn về
nơi cõi Phật. Người nhà phải liên lạc mời ban Trợ
niệm sớm bắt đầu công việc niệm Phật. Trong lúc di
chuyển bệnh nhân, gia đình phải lớn tiếng niệm Phật;
cử một người trong gia đình nói bên tai bệnh nhân
rằng: “Chúng con di chuyển thân thể của ông/bà.
Ông/bà phải giữ chánh niệm, dốc sức niệm Phật. Bây
giờ chúng ta lên xe!... Bây giờ chúng ta xuống xe!...
Chúng ta đã về tới nhà…”. Gia đình phải nhắc nhở
như thế và luôn thức tỉnh họ niệm Phật. Khi về đến
nhà hoặc sắp xếp xong, có thể đắp mền và khai thị.
6.
Con cháu muốn bày tỏ tấm lòng hiếu thảo, thương yêu
của mình với người bệnh, chỉ nên niệm Phật để bệnh
nhân an lành ra đi trong tiếng hồng danh của Phật,
về thế giới Tây phương Cực Lạc. Ngoài ra, gia đình
con cháu thật sự muốn báo đáp ân nghĩa cho người
thân, thì nên ăn chay, kiêng cử sát sanh, uống rượu,
tà dâm, phải tích cực phóng sanh làm phước cho người
bệnh vào lúc này.
7.
Khi người thân bạn bè tới thăm viếng, gia đình nên
dặn họ trước rằng, khi vào gặp bệnh nhân, không nên
ở lâu và nói những chuyện không đâu rồi khóc lóc, kể
lể, khơi dậy niềm đau nỗi khổ cho họ. Ta đề nghị
khách thăm chỉ nên khuyên bệnh nhân buông bỏ mọi
việc, hướng tâm niệm Phật. Nếu khách thăm đồng ý như
thế thì gia đình mới cho vào, đồng thời mời họ cùng
tham gia niệm Phật.
8.
Khi người bệnh hấp hối cho đến lúc tắt thở, gia đình
con cháu phải bình tĩnh niệm Phật, giúp cho người
thân mình thanh thản ra đi về cõi Phật. Được như vậy,
thì bản thân gia đình, người thân cũng được phước
báu vô biên. Nếu lúc ấy, quý vị kêu la, khóc lóc sẽ
làm liên luỵ đến người thân của mình, vô tình mình
đẩy họ vào cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
khiến họ chịu đau khổ muôn ngàn vạn kiếp.
9.
Con cháu gia đình có thật sự thương yêu người thân
của mình, nên thành tâm mời ban Trợ niệm đến niệm
Phật trợ giúp cho người bệnh được vãng sanh về cõi
Phật. Nhân đó, toàn bộ gia quyến phải cảm ơn và nghe
theo sự hướng dẫn của ban trợ niệm, cùng cộng tác
tham gia niệm Phật trợ niệm cho người thân của mình.
Nếu người thân ta đọa
sanh vào địa ngục, họ phải ở trong cảnh tối tăm, một
ngày một đêm nơi đó phải trải qua trăm vạn lần chết
đi sống lại, đau khổ vô cùng. Nếu người thân ta đọa
sanh vào loài ngạ quỷ, tối ngày phải chịu đói khát,
bức bách, đâm chém ăn nuốt lẫn nhau. Sự đau khổ đó
đến trăm ngàn vạn kiếp không ra khỏi được. Nếu người
thân sanh vào loài súc sanh, họ phải chịu sự ngu si
mê muội, bị mang lông đội sừng, bị đánh đập, phanh
thây xẻ thịt.
Biết được như thế, gia
đình càng nên cố gắng, quyết tâm giúp cho người thân
của mình được sanh về cõi Phật, thì phước báo rất
lớn. Ngược lại, nếu vô tình làm cho người thân bị
đọa vào địa ngục, thì tội đó cũng không nhỏ. Xin quý
vị thận trọng lưu ý!
IV. TỔ CHỨC
VIỆC TRỢ NIỆM
IV. 1.
Mục đích và ý
nghĩa của việc trợ niệm
Người Phật tử nên biết,
trợ niệm là công việc giúp người sắp lâm chung khơi
dậy câu Phật hiệu, hướng tâm cầu sinh về cõi Phật,
tức là giúp cho chúng sanh đó thành Phật. Ông bà
chúng ta thường nói :
“Dù xây chín bậc phù đồ.
Không bằng làm phước
cứu cho một người”
Cho nên công việc trợ
niệm vô cùng quan trọng. Đây là việc thay chư Phật,
chư Tổ cứu độ chúng sanh. Vì thế việc này đòi hỏi
người trợ niệm phải có tín tâm sâu sắc với Tam bảo,
có lòng hy sinh để cứu giúp tất cả chúng sanh vãng
sanh về cõi Phật, thoát khỏi biển khổ luân hồi sanh
tử. Chúng ta nên biết, giúp một chúng sanh sanh về
cõi Phật, tức là giúp chúng sanh đó thành một vị
Phật tương lai. Công đức này thật vô lượng vô biên.
Người Phật tử lúc bình thường tụng bao nhiêu kinh,
niệm bao nhiêu câu chú, làm biết bao việc phước
thiện, đến khi lâm chung chỉ cần chủng tử Phật trong
họ hiện hành, thì không gì hơn câu A-DI-ĐÀ PHẬT. Chỉ
có câu Phật hiệu A-DI-ĐÀ PHẬT mới cứu họ khỏi bị đọa
lạc mà thôi.
IV. 2.
Những yêu cầu
đối với ban Trợ niệm
1.
Người tham gia ban trợ niệm phải là người Phật tử
thuần thành, có tâm hết mình vì đạo, tin sâu Phật
pháp. Khi tham gia vào ban Trợ niệm, các thành viên
phải bầu ra người trưởng ban. Tốt nhất là người xuất
gia, nhưng phải là một vị Tăng đầy đủ đạo hạnh, tinh
nghiêm giới luật. nếu không có thì cư sĩ Phật tử
đứng ra đảm trách, mà phải là người có tâm chân
thành, có năng khiếu khai thị, hiểu Phật pháp, có
kinh nghiệm trợ niệm, rành tâm lý. Người này có
trách nhiệm nắm danh sách, địa chỉ, số điện thoại
của từng thành viên để khi hữu sự, dễ bề liên lạc,
cùng nhau tham gia trợ niệm.
2.
Các thành viên tham gia ban Trợ niệm, phải có tinh
thần đoàn kết và nghe theo lời chỉ dẫn của trưởng
ban, cùng nhau làm việc.
3.
Các thành viên tham
gia ban Trợ niệm phải nghiêm chỉnh tuân thủ thời
gian, không được đi trễ.
4.
Trước khi đi trợ niệm, ban Trợ niệm nên chuẩn bị
những điều cần thiết: tượng Phật A-di-đà, máy niệm
Phật, tờ thông báo của ban Trợ niệm (tờ lớn, chữ lớn),
nước uống.
5.
Khi đến nhà gia chủ
làm công việc trợ niệm, các thành viên làm thế nào
tránh những việc gây phiền hà cho gia chủ, như ăn
uống, quà cáp…, tuyệt đối không được nhận bất kỳ
tiền bạc, lễ vật gì của gia chủ. Nếu người nào nhận
tiền bạc quà cáp, hoặc đòi hỏi việc ăn uống của gia
chủ, thì trợ niệm trở thành việc kinh doanh mua bán,
tổn giảm công năng tác dụng của việc niệm Phật. Như
thế công việc trợ niệm coi như mất hết ý nghĩa cao
cả, các thành viên không được công đức về lâu về dài.
6.
Người tham gia trợ niệm phải ăn chay, không được ăn
thịt uống rượu các thứ ngũ tân, hành, hẹ, tỏi…vì
người dùng những thứ này, các vị hộ pháp thiện thần
sẽ tránh xa.
7.
Việc khai thị cho người bệnh chỉ dành cho trưởng
ban, các vị pháp sư, tổ trưởng, nhóm trưởng có kinh
nghiệm. Các thành viên khác chưa được giao trách
nhiệm này, thì không được khai thị cho bệnh nhân.
8.
Khi khai thị cho bệnh nhân, phải nói rõ ràng, ngắn
gọn, vui vẻ, khiến bệnh nhân tin tưởng, an tâm. Giúp
bệnh nhân phát nguyện vãng sanh, lời lẽ phát nguyện
nên ngắn gọn, không được dài dòng hoặc nghi thức quá.
IV.3.
Những điều cần
chú ý trước khi trợ niệm
1. Khi đến
nhà gia chủ, người trưởng ban phải gặp chủ nhà sinh
hoạt trước, cho gia đình biết qui tắc trợ niệm.
Ngoài ra, trưởng ban cũng tìm hiểu về tâm nguyện của
gia đình, xem có khúc mắc gì không. Nếu trong gia
đình có người đồng ý, có người không đồng ý, thì
trưởng ban phải khéo léo dùng những lời khuyên giải
cho họ hiểu, giải tỏa những nghi vấn trong gia đình,
đặc biệt là tháo gỡ những vướng mắc bất hòa giữa anh
em, cha mẹ, người thân, giúp cho mọi người trong gia
đình cùng hoan hỷ, vui vẻ với nhau để hiệp tâm trợ
niệm cho người bệnh ra đi một cách êm đẹp.
2.
Khi đắp mền cho bệnh nhân, cần hai người cầm hai đầu
mền nhẹ nhàng kéo lên khỏi ngực, chí thành niệm chú
vãng sanh 3 lần, rồi nhất tâm niệm Phật.
3. Người
trưởng ban phải khéo léo tiếp xúc với bệnh nhân bằng
những cử chỉ thân mật, chân thành, vui vẻ, tự tin,
lạc quan; lắng nghe những khó khăn, những nghi ngờ
của họ; khéo léo giải thích an ủi giúp cho họ phát
sanh lòng tin; nói về cảnh khổ ở thế gian và cảnh
vui cõi Phật; khuyên họ buông bỏ tất cả mọi thứ, chỉ
nhất tâm niệm Phật. Trưởng ban có thể làm cho bệnh
nhân vui vẻ, tự tin hơn bằng cách đem các việc lành
và công phu tu tập của bệnh nhân ra tán thán khen
ngợi, khiến cho bệnh nhân sanh tâm vui mừng, không
còn nghi ngại; làm sao cho họ tin rằng khi lâm chung
nhất định được về cõi Phật.
4.
Một điều không kém phần quan trọng là người trưởng
ban khuyên bệnh nhân có việc gì cần giao lại cho con
cháu, người thân, thì nên làm ngay; hoặc khuyên bệnh
nhân nên bố thí những vật sở hữu của mình để tăng
thêm phước lành, giúp thuận lợi hơn cho việc vãng
sanh. Sau khi người bệnh bàn giao rồi, ta khuyên họ
cần phải buông bỏ hết mọi thứ, chỉ giữ một ý niệm
nhất tâm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
5.
Ban Trợ niệm nên đặt tượng Phật A-di-đà trước giường
bệnh nhân, sao cho bệnh nhân dễ nhìn thấy được. Nếu
nhà chật hẹp, hoặc không sạch sẽ, không thể treo
được, thì ta có thể thỉnh tượng Phật đến trước mặt
bệnh nhân mỗi ngày hai đến ba lần để hình ảnh Phật
đi vào tâm thức họ. Không cần treo hình cố định trên
tường hay đặt trên bàn.
6.
Không nên đốt nhang quá nhiều sẽ làm khói xông nồng,
ảnh hưởng đến việc hô hấp của bệnh nhân.
7.
Sau khi an trí tượng Phật xong, trưởng ban sắp xếp
cho các thành viên ngồi hoặc đứng cho ổn định. Việc
này giúp bệnh nhân an tâm, không bị ảnh hưởng bởi sự
ồn ào, lộn xộn của ban Trợ niệm mà mất chánh niệm.
8.
Kiểm tra xem tờ thông báo, tờ hồi hướng đã dán xong
chưa, không khí trong phòng có thoáng mát không. Nếu
trời nóng, có thể mở quạt máy, nhưng không được thổi
thẳng vào người bệnh (hoặc người đã vãng sanh).
9.
Khi đến trợ niệm, thấy bệnh nhân nguy cấp thì không
cần thiết lập bàn thờ, phải lập tức đến trước bệnh
nhân niệm câu Phật hiệu.
IV.4.
Những yêu cầu đối với gia đình người bệnh
1.
Con cháu người thân cần bàn thảo việc gì, thì nên đi
tránh ra một nơi khác, không để người bệnh nghe thấy.
2.
Gia đình phải quét dọn
sạch sẽ, gọn gàng, thông thoáng phòng ngủ, giường
nằm của bệnh nhân. Bốn chân giường phải kê bốn chén
nước, hoặc rải bột tro dưới đất, tránh côn trùng
giun, kiến.. bò lên làm bệnh nhân khó chịu, gây
chướng ngại cho sự vãng sanh.
3.
Nếu trong nhà có nuôi
súc vật như chó, mèo v.v… thì nên nhốt chúng lại,
hoặc canh chừng cẩn thận, không để chúng đến gần
người bệnh.
4.
Khi vào phòng, mọi người nên tránh đụng chạm, gây ra
tiếng động ồn ào, ảnh hưởng đến bệnh nhân.
5.
Mọi người cố gắng tránh mọi sự bất tiện cho người hộ
niệm, hạn chế đi ra đi vào gây những tiếng động
không cần thiết.
6.
Trong lúc niệm Phật, yêu cầu mọi người giữ gìn yên
lặng; tuyệt đối không cho người nhà bệnh nhân tỏ ra
buồn thảm hoặc hỏi han quyến luyến. Ta yêu cầu họ
nên chắp tay cùng nhau niệm Phật. Nếu kém hiểu biết,
theo tình cảm của người thế tục, ta sẽ vô tình xô
bệnh nhân xuống hố sâu vực thẳm, sự tai hại sẽ thật
đáng tiếc.
7.
Trong khi niệm Phật, gia đình không được đốt giấy
tiền vàng bạc, tránh sự ô nhiễm và ảnh hưởng đến
việc niệm Phật.
8.
Gia đình đã mời ban Trợ niệm thì không được mời các
thầy bùa, phù thủy ngoại đạo khác để tránh gây tạp
loạn, ảnh hưởng đến chánh niệm của người hấp hối và
làm mất sự tập trung của ban Trợ niệm.
9.
Gia đình không được đụng chạm vào thân thể người
bệnh vì dễ làm họ bị mất chánh niệm.
10.
Thân nhân tuyệt đối không được khóc lóc kể lể, la
hét trong thời gian trợ niệm. Nếu cầm lòng không
được thì đi tránh nơi khác.
11.
Người thân cũng không nên hỏi thăm bệnh nhân bị nóng
hay lạnh và những chuyện linh tinh khác, vì như vậy
sẽ làm trở ngại đến việc niệm Phật của bệnh nhân.
12.
Trong khi mọi người đang trợ niệm, gia đình cố gắng
không gây ra các tạp âm, hoặc các tiếng động lớn
(ho, hắt hơi…) làm bệnh nhân giật mình, thì khó
thành tựu được.
13.
Nếu có điều trở ngại trong lúc trợ niệm, gia đình
nên trực tiếp gặp trưởng ban Trợ niệm để bàn bạc.
IV.5.
Cách thức trợ niệm
1.
Khi bước vào trợ niệm, các thành viên nên xem người
bệnh mình đang trợ niệm đó là người thân thuộc của
mình. Có thể đời này hoặc nhiều đời khác, ta và họ
là thân quyến của nhau. Nghĩ được như thế, ta sẽ
thực hành niệm Phật tha thiết hơn, chân thành hơn
giống như chính mình muốn được vãng sanh để làm lợi
ích cho bệnh nhân.
2.
Khi trợ niệm không nhất thiết phải mặc áo lễ, nếu
mặc được thì tốt, còn không thì cũng không sao. Khi
niệm, không phan duyên.
3.
Mọi người phải ngồi cách xa người bệnh khoảng 2
thước, chú tâm niệm Phật; không được đi kinh hành.
4.Khi
ở trước bệnh nhân, ta không hỏi, không nói những
chuyện linh tinh, chỉ nên có câu niệm Phật mà thôi.
5.
Khi đang trợ niệm,
muốn uống nước, xin hãy ra ngoài để không làm phân
tâm người khác và cũng là thái độ cung kính người
vãng sanh.
6.
Khi người bệnh muốn thay đồ tắm rửa hay đổi thế nằm,
ta có thể thuận theo, nhưng phải nhẹ nhàng cẩn thận.
Nếu họ không chịu hoặc bị á khẩu không nói được, thì
ta không nên tự ý làm, vì người sắp chết thân thể
đau nhức, nếu ép họ di chuyển, đổi chỗ nằm hoặc tắm
rửa, thay quần áo, thì vô tình ta làm cho họ càng
thêm đau đớn. Có nhiều người cả đời tu hành ăn chay
niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, nhưng khi lâm
chung bị người thân làm những việc nhiễu loạn như
trên, phá hoại chánh niệm, khiến họ không được vãng
sanh. Việc này rất thường xảy ra. Lẽ ra người đó
được vãng sanh về cõi lành, nhưng do gia đình người
thân không biết, xúc chạm thân thể, dời đổi, di
chuyển, tắm rửa, làm cho họ đau đớn, sanh lòng giận
tức. Vừa khi sanh lòng sân hận, lập tức họ bị đọa
vào đường ác. Vì thế, khi đang trợ niệm, mọi việc
tắm rửa di chuyển người bệnh coi như bị ngăn cấm.
7.
Người trợ niệm chỉ niệm câu NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT hoặc
A-DI-ĐÀ PHẬT, không tụng bất cứ loại kinh điển nào
khác. Trưởng ban nên hỏi qua ý bệnh nhân xem thích
niệm sáu chữ hay bốn chữ, mà tùy thuận niệm theo.
8.
Khi niệm, ta có thể dùng khánh hoặc mõ nhỏ để hỗ trợ
thêm. Khi đánh mõ hoặc khánh, phải đánh nhẹ nhàng,
thanh thoát. Không được đánh quá lớn, át tiếng niệm
Phật, cũng không được đánh quá nhanh. Nếu người bệnh
thần kinh yếu thì ta không được dùng khánh, chỉ dùng
mõ nhỏ đánh mà thôi. Tuy nhiên, cũng tùy trường hợp,
nếu bệnh nhân không ưa tiếng mõ, tiếng khánh, thì
ban Trợ niệm không cần pháp khí.
9.
Khi bệnh nhân sắp tắt hơi, ban Trợ niệm chỉ nhất mực
phát tâm niệm Phật, cho dù có mùi hôi thối. Người
Phật tử nên biết, trợ niệm là đảm nhiệm công việc
cao cả của Như Lai để cứu độ chúng sanh thoát khỏi
sanh tử. Chẳng lẽ, chỉ vì mùi hôi thối mà bỏ đi
trách nhiệm quan trọng này sao? Lúc con người chưa
bệnh, đã bệnh cho đến khi lâm chung, xác thân nào
cũng không tránh khỏi ô uế. Hơn nữa, không thay rửa
đồ ô uế của bệnh nhân là việc bất đắc dĩ, không có
tội lỗi gì cả. Hiểu được như thế, thì tâm chúng ta
không còn nghĩ đến mùi hôi thối nữa, chỉ một lòng
giúp cho bệnh nhân giữ chánh niệm khi sắp tắt hơi mà
thôi. Mọi người cố gắng sao không vì những việc nhỏ
mà làm hỏng đại sự vãng sanh. Giúp cho một chúng
sanh về cõi Phật thì công đức vô lượng vô biên. Còn
vô tâm làm cho người bệnh mất chánh niệm, phải đoạ
vào địa ngục, thì tội đó chẳng phải nhỏ. Vì thế, mọi
người trong gia đình và ban Trợ niệm phải nỗ lực hết
mình. Để giảm bớt mùi hôi, ta có thể đốt nhang trầm
hoặc để nước đá lạnh. Tuy nhiên, đừng để nước đá quá
gần thân xác người vãng sanh.
10.
Nên tùy theo sức của bệnh nhân mà người trợ niệm có
thể niệm giọng cao thấp, nhanh chậm. Nếu niệm lớn
quá sẽ tổn khí, người trợ
niệm khó có thể
trì niệm được lâu. Nếu niệm giọng thấp quá thì bệnh
nhân không thể nghe được. Người bệnh lúc lâm chung,
không còn khí lực, hơi thở yếu, không thể niệm to,
khỏe như lúc bình thường đuợc. Vì thế, người trợ
niệm phải theo sức của bệnh nhân. Quan trọng là khi
niệm, mỗi câu mỗi chữ phải rõ ràng phân minh, khiến
cho câu Phật hiệu đi vào tai, thấm vào tâm thức
người bệnh. Được vậy, họ mới có sự lợi ích.
11.
Khi niệm, ban Trợ niệm nên chia thành nhóm, mỗi nhóm
từ 5-10 người. Mỗi nhóm thay nhau niệm từ 1-2 tiếng
đồng hồ. Nếu không chia nhóm, người trợ niệm khi
niệm lâu, không đủ sức, niệm yếu dần, không toàn tâm
toàn lực được. Đến khi ăn uống, các thành viên cũng
nên chia nhau thay phiên, không được để ngưng tiếng
niệm Phật.
12.
Nếu số người trợ niệm ít, thì bất đắc dĩ chúng ta có
thể dùng máy niệm Phật hỗ trợ thêm cho bệnh nhân đề
khởi chánh niệm. Tuy nhiên, không được dùng máy thay
cho việc trợ niệm. Tốt nhất là được đại chúng niệm
Phật trợ giúp, vì người niệm Phật có sự cảm ứng thì
người hấp hối được lợi ích, khuôn mặt sẽ rất hiền
hòa, an nhiên.
13.
Phải tùy thuận theo người bệnh lúc lâm chung, thân
thể họ có thể ngồi, nằm, nằm nghiêng, nằm thẳng, ta
không được cưỡng ép.
IV.6.
Những việc có thể xảy ra khi trợ niệm
Bệnh nhân khi hấp hối,
mỗi người mỗi nghiệp khác nhau. Người trợ niệm phải
hiểu rõ đạo lý và phương pháp trợ niệm thì người
bệnh mới được lợi lạc. Lưu ý, khi trợ niệm sẽ xảy ra
một số trường hợp như sau:
1.
Nếu thần thức bệnh nhân còn tỉnh táo, người trưởng
ban trợ niệm khuyên họ nên buông bỏ vạn duyên để
niệm theo tiếng Phật hiệu, có thể niệm trong tâm
hoặc lắng tai nghe.
2.
Nếu người bệnh có điều gì lưu luyến, người phụ trách
nên giảng giải cho họ hiểu như sau: “Chúng tôi
đến hướng dẫn ông/bà niệm Phật. Nếu thọ mạng chưa
dứt, thì nhờ niệm Phật mà được hết bệnh. Nếu thọ
mạng hết, thì ông/bà có thể thong dong đi về cõi
Phật”. Ta giải thích vắn tắt như vậy để họ giữ
chánh niệm.
3.
Có bệnh nhân do nghiệp chướng nặng nề, khi nghe
tiếng niệm Phật thì tâm lại khó chịu không muốn nghe.
Có người thấy người thân của mình như cha mẹ, ông bà,
anh em... trong dòng họ đã chết, giờ hiện đến rủ đi;
hoặc thấy oan hồn, quỷ sứ đến đòi mạng… Hoặc bệnh
nhân khi còn sống không tin vào Phật Pháp Tăng, khi
lâm chung la hét lo sợ vì thấy các hiện tượng kinh
hoàng hiện đến. Đây là những oan gia trái chủ của
bệnh nhân xuất hiện, làm trở ngại sự vãng sanh. Lúc
này vị trưởng ban nghi lễ phải khẩn thiết đối trước
hình Phật, khai thị cho oan gia trái chủ của người
bệnh.
4.
Khi thấy những tình trạng như vậy xảy ra, ngay lập
tức gia đình phải đến bàn thờ Phật quỳ lạy sám hối
cho người bệnh, giúp cho họ nghiệp chướng được tiêu
trừ vãng sanh về cõi Phật. Gia đình có thể phát
nguyện trì tụng kinh Địa tạng vào lúc
này là
tốt
nhất.
5.
Khi trợ niệm, thấy bệnh nhân dần dần đi vào hôn trầm,
giống như đang ngủ, người trợ niệm có thể dùng khánh
để kế bên tai của bệnh nhân gõ lên một tiếng hoặc
nhiều tiếng, nhắc bệnh nhân tỉnh giác niệm Phật.
Người trưởng ban có thể nói như sau: “Ông/bà hãy
mau niện Phật. Khi Phật A-di-đà đến, mau mau theo
Ngài mà đi!”, rồi cất tiếng niệm Phật cao hơn
khiến tâm của bệnh nhân không còn hôn mê. Ngoài ra
người thân quyến liên tục sám hối, lạy Phật, quán
tưởng Phật A-di-đà đến phóng quang tiếp độ cho người
thân mình vãng sanh về cõi Phật.
6.
Đang khi trợ niệm, bệnh nhân xuất mồ hôi, hoặc tỏ vẻ
lo lắng, đầu tay chân cử động không yên. Đây là hiện
tượng của bệnh khổ, sức tập trung của bệnh nhân rất
yếu, không tự chủ được nữa. Lúc này người hộ niệm
nên đến gần bệnh nhân, lớn tiếng nhắc nhở rằng: “Ông/bà..
Tây phương thế giới đang ở phía trước mặt ông/bà đó.
Hãy cố gắng tập trung vào câu phật hiệu A-di-đà Phật,
thì nhất định sẽ được về cõi Phật!”. Người hộ
niệm nói ba lần như vậy, sau đó tiếp tục niệm Phật.
7.
Có khi đang trợ niệm, bệnh nhân trở nên tỉnh táo hơn
trước, có thể nói chuyện, hoặc than thở hoặc cử động
thân thể. Trước tình huống như thế, người trợ niệm
nên biết không phải hiện tượng lành bệnh, mà khoảng
2 tiếng đồng hồ sau bệnh nhân sẽ tắt thở, giống như
ngọn đèn dầu loé lên một tia sáng rồi vụt tắt.
8.
Thời gian bệnh nhân sắp tắt thở là giai đoạn tối
quan trọng và khẩn cấp nhất. Lúc này tuyệt đối người
nhà không nên tập trung trước mặt bênh nhân, la lên
“ba, ơi, má ơi” làm hỏng hết mọi việc, toàn bộ gia
đình chỉ nên nhất tâm niệm Phật cùng với ban Trợ
niệm.
9.
Có người lúc sinh tiền không tin Phật pháp, lại còn
chê bai hủy báng, làm chướng ngại người khác tu hành,
khi họ lâm chung, xuất hiện tướng rất xấu. Vị trưởng
ban phải biết và ngay lúc này khai thị cho họ hướng
tâm quy y Tam bảo.
10.
Có những người lúc khỏe mạnh, có đi chùa, niệm Phật
tụng kinh, nhưng cốt yếu là cầu cho mình có sức khoẻ,
gia đình được giàu sang, nên khi bệnh, họ rất sợ
chết. Khi ấy, họ niệm Phật mục đích là cầu cho hết
bệnh chứ không phải là cầu vãng sanh, nên đây cũng
là chướng ngại. Vì vậy, người phụ trách trợ niệm
phải biết mà khai thị cho họ.
11.
Sau khi người bệnh tắt thở, trong vòng 8 tiếng đồng
hồ, ban Trợ niệm không được ngưng tiếng niệm Phật,
vì khi ấy, linh hồn (còn gọi là thần thức) người
chết vẫn chưa đi, vì nghiệp lực khiến họ vẫn còn ở
trong thân xác, chưa ra khỏi được, chỉ trừ những
người công phu tu tập tốt, hoặc người nghiệp lực
nặng thì đi ngay. Đối với người không công phu tu
tập, thì tâm thức ra khỏi thân xác không nổi, phải
chịu nhiều khó khăn và đau đớn giống như rùa sống bị
lột mai. Do đó, ta cần phải niệm Phật 24 giờ không
gián đoạn mới tránh sự nguy hiểm phải đọa lạc cho
người chết.
Người trưởng ban dặn
người nhà của bệnh nhân trong vòng 12 tiếng đồng hồ
phải luân phiên niệm Phật; không được động chạm đến
thân xác, không được thay quần áo, hoặc rờ vào người
chết và canh giữ xác cho kỹ, kẻo loài mèo chó hoặc
những kẻ không am hiểu đổ xô vào xúc chạm, kêu réo,
khiến người chết đau đớn, sanh tâm sân hận, vì thời
gian này, người chết vẫn còn cảm giác.
12.
Người nhà phải chờ sau thời gian hộ niệm (8 tiếng
hoặc 12 tiếng) mới có thể đụng vào thân xác người
chết. Nếu xác bị cứng thì ta có thể dùng nước nóng
đắp lên là được.
Công việc trợ niệm đến đây là xong, ban Trợ niệm
tụng bài hồi hướng, đảnh lễ lui ra.
V. CÁC HIỆN
TƯỢNG NGƯỜI CHẾT KHÔNG SIÊU THOÁT, PHẢI SANH VÀO CÁC
ÁC ĐẠO
V.1.
Thân trung ấm
Sau khi tắt thở, thần
thức (còn gọi là linh hồn) người chết, nếu chưa được
giải thoát, phần nhiều trải qua giai đoạn tối tắm mờ
mịt, đến ba ngày sau sau mới biết mình đã chết. Khi
đó, người chết bắt đầu đi vào thân trung ấm, thấy
được những kẻ thân thuộc của mình, nên đắn đo tự hỏi
không biết ta đã chết chưa. Vì thế, hơn lúc nào hết,
con cháu người thân nên luân phiên niệm Phật, để nhờ
oai lực Phật dắt dìu người thân đã chết về cõi Tịnh
độ.
Khi con người bỏ thân
xác này, chuyển qua một thế giới mới, chính họ đang
ngơ ngác không biết đi đường nào cho phải, thế nên
phải nhờ vào phương pháp niệm Phật để cứu độ cho họ.
Việc gia đình mời được những bậc thiện tri thức khai
thị cho họ biết đường vãng sanh về cõi Phật là điều
vô cùng trọng yếu. Lúc này người vừa chết chưa được
giải thoát, nên quanh quẩn trong gia đình và người
thân. Họ cũng kể lể khóc than, nhưng những người
thân trong gia đình hoàn toàn không hiểu được. Rồi
người chết buồn rầu giận dữ, khóc lóc, thấy người
thân con cháu gọi đến tên mình rồi than khóc, thấy
hình ảnh mình cùng các phẩm vật bày trên bàn thờ, họ
tự nhủ “Ta đã chết rồi sao?”. Lúc ấy họ hết sức đau
khổ, muốn đến nói với gia đình rằng “Tôi còn sống
đây!”, nhưng không ai thấy nghe cả. Việc này khiến
người chết giận dữ, bỏ đi, không nghĩ đến cảnh giới
lành dữ thế nào. Đây là tình trạng những hương linh
đang sống trong cảnh khổ bơ vơ không nơi nương tựa,
sắp đi vào các đường ác. Lúc này thân trung ấm, hay
linh hồn có yêu mến người thân gia đình bao nhiêu đi
nữa, nhưng vì âm dương cách trở cũng không thể đến
với nhau được. Vì thế, để tránh đi vào đường ác,
thân trung ấm nên yên lòng niệm Phật A-di-đà hay bồ
tát Quan Thế Âm, cầu xin các Ngài cứu độ. Đây cũng
là lúc gia đình phải hết lòng niệm Phật để cứu độ
người thân đang ở thân trung ấm bơ vơ.
Lúc đó có trận cuồng
phong dữ dội thổi đến, nào đá lỡ sấm dậy, có những
hạng người mặt mày hung dữ làm cho thân trung ấm
khiếp sợ, thân này bèn chạy khắp nơi tìm nơi ẩn nấp
như cầu cống, miếu, các lăng tháp… Khi đó thân trung
ấm cực kỳ buồn khổ, sợ hãi, không có nơi nương tựa,
rất muốn làm lại thân người nhưng không được, vì thi
thể của mình trước kia bị gia đình người thân bỏ vào
hòm, hay chôn xuống đất, hoặc đã hỏa táng rồi, không
có thân xác nào nhập vào được. Đang lúc khiếp sợ đó,
thân trung ấm thấy có những luồng ánh sáng yếu ớt
của lục phàm hiện ra: ánh sáng cõi Người, Trời, A tu
la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Các luồng ánh sáng
đó chiếu đến, người chết cảm với luồng ánh sáng nào
thì luồng ánh sáng đó sẽ sáng lên. Ánh sáng cõi Trời
màu hơi trắng. Ánh sáng cõi Người màu hơi vàng. Ánh
sáng cõi A tu la màu hơi lục. Ánh sáng địa ngục màu
khói đen. Ánh sáng ngạ quỷ màu đỏ. Ánh sáng súc sanh
màu hơi xanh. Ánh sáng hào quang của các cõi Phật
thì sáng rực rỡ. Nhưng vì nghiệp lực nặng nề, người
chết khi thấy các hào quang sáng chói của cõi Phật
thì sợ hãi, chỉ ưa thích các ánh sáng yếu ớt dễ chịu
trong lục đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Trời,
Người, A-tu-la chiếu đến, nên tham đắm liền đầu thai
vào lục đạo chịu khổ mãi trong vòng luân hồi. Vì
thế, nếu đã biết được, ta cần phải tránh xa lục đạo
ra. Khi thấy hào quang sáng chói mãnh liệt thì biết
đó là hào quang của chư Phật, không nên sợ hãi,
không khiếp nhược, lập tức niệm Phật A-di-đà, bồ tát
Quán Thế Âm, đem toàn thân nương vào đó, tức khắc sẽ
được sanh về cõi Phật an vui, xa lìa khổ não trong
sáu đường khổ.
Có khi người chết vì
nghiệp duyên quá nặng nên lang thang trong cõi âm,
thấy nhiều cảnh tượng rất ghê sợ như: tối tăm, bão
táp, sấm sét, sương mù v.v… thì khiếp sợ quá đỗi,
phải tìm phương trốn tránh, bỏ cả thân mạng mà tuôn
chạy. Khi ấy họ lại thấy ở trước mắt có núi đèo,
hang hố, cây cối, bụi rừng. Vì muốn vội vàng tránh
thoát, nên họ không kịp lựa chọn phải vào chỗ nào,
chỉ cần biết phải nấp vào một nơi nào đó. Khi có chỗ
nấp thì không muốn ra khỏi nữa, sợ rằng nếu ra khỏi
sẽ bị khổ sở. Rốt cuộc họ không ngờ mình đã trở lại
thọ thân hèn hạ và chịu thêm nhiều đau khổ!
Nay xin lược thuật
nghiệp thức của kẻ chết, nếu sắp sanh vào đường
A-tu-la, sẽ có các hiện tượng như sau: thấy những
vườn cây khả ái và những vầng lửa lẫn lộn chuyển
xoay. Nếu người chết thấy những cảnh tượng ấy mà
sanh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là đầu thai vào đạo
A-tu-la.
Nếu nghiệp cảm của kẻ
chết sắp sanh vào đường súc sinh, thì họ tự cảm thấy
có núi non, hang hố, vực sâu hiện ra trước mắt, nếu
muốn vào trong đó tức là đầu thai vào đường súc
sinh.
Nghiệp cảm của kẻ chết
nếu sắp sanh vào đường ngạ quỷ thì họ sẽ tự thấy có
một bãi sa mạc không cây cối, hoặc có những hang hố,
cỏ cây khô héo… Đó là cảnh tượng của ngạ quỷ, nếu
sanh vào trong đó thì luôn luôn chịu đói khát và hết
sức khổ sở.
Nếu nghiệp cảm của
người chết sắp sanh vào địa ngục, thì họ cảm thấy
trong thân mình như bị gió lạnh áp bức. Rồi họ lại
tự thấy những ngọn lửa của địa ngục bốc lên, vì ưa
sự ấm áp, nên vội đi vào trong đó. Nếu kẻ chết sanh
vào địa ngục Đại hàn, thì trước hết cảm thấy trong
thân mình như bị chạm phải luồng gió nóng, hay bị
lửa đỏ nung đốt, cho nên khi hơi mát trong địa ngục
đại hàn bốc lên, họ cảm thấy sảng khoái dễ chịu. Vì
ưa mát mẻ nên vội vàng đi vào trong cảnh ấy, lập tức
họ sẽ bị bó buộc không thể nào tránh thoát được nữa.
Hơn nữa, nếu lúc còn
sống, trong khi gây nghiệp, thường có bạn bè hùa
nhau giúp đỡ, thì khi lâm chung người chết sẽ thấy
bạn bè đồng nghiệp với mình ngày trước hiện ra trước
mắt. Khi đó vì xúc động, nhớ đến tình cảm ngày xưa,
người chết vội vàng chạy đến với bạn. Nhưng khi đã
đến rồi, thì cảnh ấy hoàn toàn thay đổi, người chết
phải chịu mọi điều khổ sở.
Nếu biết được thế, khi
thấy những cảnh tượng trên, ta phải giữ vững tâm
chí, chớ nên vội vàng đi đến, cần phải nên chăm lòng
cung kính niệm danh hiệu Phật A-di-đà, để cầu Ngài
đến cứu độ cho mình là tốt nhất.
V.2.
Chuyển sanh vào
loài bàng sanh
Theo
nghiệp cảm, người chết nếu sanh vào bàng sanh thì có
thể thành một trong bốn loài: Thai, noãn, thấp, hóa.
V.2.1.
Đọa vào loài thai sinh và noãn sinh
Nếu người nào lòng xan
tham tật đố nặng nề, thì sẽ đầu thai làm các loài
như: chó, mèo... (thai sinh). Còn ai lòng sân hận
quá nặng, thì đọa làm loài rắn rết, bò cạp... (noãn
sinh). Còn người nào lòng dâm dục nặng nề, thì đọa
làm loài uyên ương, chim tước, chim cáp v.v... (vì
những loài này dục tình lắm nặng nề). Người nào ưa
chơi bời trụy lạc, thì đọa làm loài vượn, khỉ v.v...
(thai sinh).
Tóm lại, cội gốc của
tội lỗi là do ở ngu si mà ra.
Có khi người chết bỗng
thấy những loài hữu tình đồng loại vừa ý, nên vội
vàng chạy đến. Tuy các loài này cũng nương theo nhân
duyên hòa hợp của cha mẹ mà đầu thai, nhưng những
điều kiện trói buộc của thế giới này đơn giản hơn so
với đường vào cõi Người, cho nên rất dễ bị đọa vào.
V.2.2.
Đọa vào loài thấp sinh
Loài thấp sinh là loài
nương vào chỗ ẩm thấp mà sinh sống. Người chết có
khi vì ngửi được mùi vị của chỗ mình sắp đến thọ
sanh, sanh lòng ưa đắm, liền đến đó nương vào. Chỗ
thấp sinh là những nơi ẩm thấp, bùn lầy nhơ nhớp,
người chết lấy đó làm tự thể, chứ nơi đó không có
tinh huyết của cha mẹ hòa hợp. Khi đi đến nương vào
chỗ ẩm thấp để thác sanh, người chết bạ vào vật gì
mục nát, hoặc là phân bón v.v... tùy theo nghiệp lực
của mình mà đến gần gũi ưa đắm thác sanh.
V.2.3.
Đọa vào loài hóa sinh
Hóa sinh là những loài
rồng, loài chim kim sí. Cũng là gốc ở trong bốn
loài: thai, noãn, thấp, hóa mà ra, nhưng nó là loài
hóa sinh đặc biệt, được hưởng thọ sự sung sướng như
các cõi Trời. Tuy nhiên, những loài này thuộc về súc
sanh, một trong ba ác đạo, chúng vẫn không thoát
khỏi sanh tử luân hồi và phải chịu nhiều khổ não
khác.
VI. NHỮNG
VIỆC GIA ĐÌNH CẦN LÀM ĐỂ NGƯỜI MẤT ĐƯỢC LỢI ÍCH
VI.1.
Thực hành theo
Phật pháp
- Điều căn bản và quan
trọng nhất là gia đình nên y theo Phật pháp để giúp
cho vong linh được siêu thoát.
- Trong đám tang người
quá cố, khi nhập liệm, gia đình nên mang những đồ
quý báu của người mất bố thí cho người nghèo rồi hồi
hướng công đức ấy cho người chết.
- Nên làm lễ tang đơn giản, vì càng rườm rà càng hao
tốn tiền của, sức lực một cách vô ích, người chết
không những không được lợi ích gì, có khi còn phải
gánh chịu thêm nghiệp quả xấu do thân nhân gia đình
không biết tạo thêm nghiệp tội. Gia đình phải biết
tiết kiệm phước, không được có bất cứ hành vi phung
phí gạo, rau… Phải vì người chết mà tích phước, làm
việc công đức như: cúng dường Tam bảo, phóng sanh,
in kinh, cứu giúp người nghèo khổ… Đem những công
đước này hồi hướng cho người vãng sanh, họ sẽ được
lợi ích thù thắng, không gì sánh bằng.
- Từ lúc người chết ra
đi cho đến 49 ngày, gia đình thân quyến chớ có sát
sanh đãi đằng cúng tế, vì làm vậy người mất sẽ bị
oan đối không được siêu thoát. Cả nhà ai nấy đều
phải nhất luật giữ gìn trai giới, dù có khách khứa
cũng không được thiết đãi rượu thịt, tránh làm các
thứ ô uế khác như phải cữ việc vợ chồng, giữ ngũ
giới thập thiện, tuyệt đối không được sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không
uống rượu.
- Gia đình tiếp tục
luân phiên niệm Phật và khai thị nhắc nhở hương
linh, thì nhất định sẽ giúp người thân mình được
giải thoát.
- Đối với Pháp sư, gia
đình nên chọn mời những bậc đạo hạnh chân chính. Còn
những hạng phóng đãng phá giới và chỉ biết nhìn đến
tài lợi, thì ta không nên cầu thỉnh. Nếu gia đình
không biết đó là hạng pháp sư vi phạm giới luật,
tịnh hạnh không nghiêm, không đúng đắn, ngông
cuồng... thì người chết lúc này là thân trung ấm nên
có sự cảm nhận rất bén nhạy, nếu biết kẻ ấy lừa gạt.
Người chết sẽ thất vọng, sanh ra hối hận, tức giận,
phải đọa vào khổ thú. Cho nên, gia đình phải cẩn
trọng việc này.
- Trường hợp này, các thiện tri thức phải dùng những
lời như sau đây mà khai thị cho hương linh:
"Phật
biết rằng thân của bậc tăng-già tên... tức là thân
của Phật. Ngươi phải khởi ý tưởng rằng chỉ nương
theo pháp, chứ không nương theo người. Mặc dù người
tác pháp đó có lầm lỗi thế nào đi nữa, đều là do cái
lỗi của ý thức chưa được trong sạch đó thôi. Tỷ như
người soi gương, vì mặt mình không sạch, nên cái
bóng trong gương cũng nhơ bẩn. Vậy thì biết chắc
rằng sở dĩ kẻ tác pháp có sai lầm, đều do tâm niệm
của ngươi chưa trong sạch vậy. Ngươi nên khởi tưởng
như thế và phải hết lòng cung kính ái mộ, thì việc
làm gì cũng đều biến thành Phật sự thanh tịnh và
mình vẫn không mất lợi lạc”.
- Gia quyến trước khi
rước Pháp sư làm Phật sự, cũng nên đối trước bàn
hương linh mà khai thị bảy phen như thế, thì dù
trong khi làm Phật sự có đôi chút sai lầm, cũng vẫn
được.
VI.2.
Cách làm việc
phước thiện
Điểm trọng yếu của
việc phước thiện là phải lấy hạnh bố thí làm gốc. Để
hương linh được lợi ích, gia đình đem di sản của
người chết đi bố thí là tốt hơn hết. Nếu không, thì
bố thí của cải của gia đình người thân hoặc của bà
con, bạn bè mà giúp vào cũng được, người chết chắc
chắn được lợi ích. Kinh Vô thường đã nói: "Sau
khi người thân mất, gia đình nên lấy y phục mới mẻ
của người chết, hoặc lấy những vật thọ dụng của kẻ
còn sống: chia làm 3 phần, vì người chết đó mà cúng
dường Phật-đà, Đạt-ma và Tăng-già (Tam bảo). Nhờ đó
mà người chết dù nghiệp nặng cũng trở thành nhẹ và
được công đức phước lợi thù thắng. Không nên đem
những y phục tốt đẹp mặc cho người chết để đem đi
tống táng. Vì sao? Vì không có lợi gì. Chỉ nhờ những
công đức làm việc phước báu nói trên, người chết dù
đọa vào Ngạ quỉ, cũng được hưởng rất nhiều lợi ích”.
Trong kinh Ưu-bà-tắc cũng có nói: "Nếu
người cha chết rồi bị đọa vào trong Ngạ quỉ, mà
người con vì cha làm những việc phước đức, nên biết,
người cha liền được hưởng thọ. Nếu được sanh lên
Trời thì người chết không còn nghĩ đến vật dụng
trong cõi Người nữa. Vì sao? Vì ở cõi Trời, người ta
đã được đầy đủ bảo vật thù thắng rồi. Nếu phải đọa
vào địa ngục, thì thân họ phải chịu bao nhiêu khổ
não, không được thảnh thơi để nhớ nghĩ luyến tiếc
mọi vật, vậy nên không được hưởng thọ. Kẻ đọa vào
súc sanh, nên biết cũng như thế. Nếu hỏi tại sao ở
trong ngạ quỉ người chết có thể liền được hưởng thọ
lợi ích, thì biết vì người ấy sẵn có lòng tham lam
bỏn xẻn, cho nên phải đọa vào ngạ quỉ. Khi đã làm
ngạ quỉ, họ thường hay hối hận tội lỗi ngày trước,
suy nghĩ muốn được lợi ích, bởi thế họ được hưởng
lợi ích".
Đấy là nói rõ chỗ lợi
của quỉ thú, còn đối với công phu làm việc phước
thiện, thật không luống uổng, vì không những kẻ
chết, mà người sống hiện tại cũng chung phần được
hưởng. Như trong kinh nói: "Nếu như kẻ chết đã
thác sinh vào ác đạo khác, nhưng còn bao nhiêu bà
con còn đọa trong ngạ quỉ, nếu người sống có làm
việc phước đức, tức thì họ cũng đều được lợi ích. Vì
thế, người có trí, nên vì ngạ quỉ mà siêng năng làm
việc công đức".
Lưu ý rằng khi lấy di sản của kẻ chết làm việc phước
đức, trước hết phải xét rõ người ấy lúc còn sống,
tính tình có bỏn sẻn không. Điều này rất quan trọng,
vì khi thấy gia đình người thân đem di sản của mình
ra làm Phật sự hay bố thí, thấy vật dụng đó bây giờ
thành sở hữu của kẻ khác, người chết liền sanh lòng
giận hờn, tiếc nuối, rồi khởi lên tà niệm, liền bị
nghiệp lực dắt vào ác đạo. Cho nên thiện tri thức
hoặc người thân gia đình phải khai thị cho người
chết những lời như sau đây "Ông/bà tên... Nay ta
vì ông/bà mà đem di sản của ông/bà làm Phật sự hay
bố thí. Làm như thế, tức là lấy của cải hữu lậu làm
việc vô lậu, nhờ ở công đức này, ông/bà sẽ được siêu
sanh Tịnh độ, thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
Ông/bà phải chăm lòng thành kính niệm Phật A-di-đà,
cầu Ngài đến cứu độ cho. Đối với di sản, ông/bà cần
phải rời bỏ, chớ nên bận lòng, phải hoàn toàn không
mến tiếc tham đắm mới được. Vì những thế tài (tài
sản thế gian) dù có hoàn toàn để lại, ông/bà cũng
không thể thọ dụng được nữa. Như thế, đối với
ông/bà, chúng đã thành vô dụng, còn luyến tiếc làm
gì?”.
VI.3.
Cách sắp đặt
cúng tế
Về cách sắp đặt cúng
tế, thì rất kỵ việc sát sanh, vì việc sát sanh càng
làm liên lụy khổ quả cho người chết. Thân trung ấm
nếu một phen thấy được việc ấy lập tức bảo thôi;
nhưng ngặt nỗi âm, dương cách trở, người thân gia
đình không thể nào nghe được, vẫn trở lại sát sanh
như thường. Kẻ chết không thể ngăn nổi sân niệm khởi
lên, liền phải đọa vào địa ngục. Cho nên người sắp
đặt cúng tế cần phải cẩn thận chú ý.
Nếu muốn cúng tế, thì
nên dùng đồ chay, hương, hoa, sữa, bánh và trái cây,
chớ dùng những đồ uế tạp và sát hại sanh vật. Kinh
Địa Tạng đã nói: "Làm những việc sát hại,
cho đến bái tế quỉ thần đã không có một mảy may
phước đức, không có lợi gì mà còn kết thêm tội lỗi
sâu nặng cho người chết. Dù cho người chết, đời sau
hoặc đời này có thể chứng được Thánh quả, hoặc sanh
lên Trời, nhưng khi lâm chung bị gia đình làm những
ác nhân ấy (tức là nhân sát hại) làm cho họ phải
liên lụy nhiều bề, chậm sanh về chỗ lành. Huống chi
kẻ chết đó khi sống còn chưa từng làm một chút việc
lành, chỉ một bề nương theo gốc nghiệp mà tạo tác,
theo lý phải chịu vào ác thú. Nỡ nào gia đình người
thân lại gây thêm nghiệp cho họ?”. Gia đình nên
lưu tâm đến điều này.
VII.
PHẦN THAM KHẢO THÊM
VII.1.
Khai thị cho
người bệnh
Bất luận người bệnh đã
tắt thở hay chưa, đều phải khai thị. Xin gợi ý các
lời khai thị như sau:
1.
Bài thứ nhất
“Kính thưa cư sĩ…
A-di-đà Phật! Ông/bà nên buông xả vạn duyên, nhất
tâm cầu sanh Tịnh độ nơi Tây phương Cực Lạc. Con
cháu tự có phước phần riêng của họ. Thế gian này rất
khổ, không nên lưu luyến. Thế giới Cực Lạc của Phật
A-di-đà có bảy hàng cây báu, tám loại nước công đức,
đất trải bằng vàng, vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ
không thể diễn tả hết được. Ông/bà nên lập tức phát
nguyện đến thế giới Cực Lạc, một lòng cầu Phật từ bi
đến tiếp dẫn ông/bà vãng sanh Tây phương. Chỉ khi
gặp Phật A-di-đà hoặc thấy ánh hào quang màu vàng
(kim sắc) ôn hòa của Tây phương Tam Thánh, ông/bà
mới theo các Ngài đi. Ngoài ra, khi thấy bất cứ cảnh
tượng nào khác, tuyệt đối không thèm để ý đ61n. Như
vậy, ông/bà nhất định được vãng sanh về Tây phương.
Bây giờ chúng tôi niệm Phật, xin ông/bà hãy cùng
niệm Phật với chúng tôi”.
2.
Bài thứ hai
Nam mô A-di-đà
Phật.
Phật tử…, pháp
danh…
Sanh lão bệnh tử là
con đường mọi người phải đi qua, không ai có thể
tránh được. Đã có sanh ắt phải có tử.
Phật đã nói thể
gian này là khổ, là vô thường. Lúc này, Phật tử hãy
buông xả mọi việc, tâm không nên gợi lên những than
hận hay cố chấp. hãy thành tâm niệm Phật với lòng
tin và sự khẩn cầu sanh về Tây phương Cực Lạc quốc.
Hãy niệm Phật với chánh niệm để tiêu tan nghiệp
chướng, cho thân tâm được tự tại.
Hãy khẩn cầu với
lòng thành kính. Nhất tâm niệm Phật, khẩu cầu đức
Đại từ đại bi A-di-đà Phật đến tiếp độ, phóng quang
soi sáng và dùng Phật lực để giúp người niệm A-di-đà
Phật với chánh niệm.
Hãy khẩn
vầu Phật A-di-đà đến tiếp độ, niệm niệm A-di-đà
Phật, niệm niệm cầu sanh về Tây phương Cực Lạc quốc.
Nam mô
A-di-đà Phật.
VII.2.
Khai thị cho oan
gia trái chủ
Nam mô
A-di-đà Phật.
Phật tử…,
pháp danh… từ nhiều đời nhiều kiếp đã gây ra nhiều
oan gia trái chủ.
Ông/bà…
và quí vị đã có duyên với nhau. Phật nói kết thân
tâm pháp duyên là thù thắng nhất. Cho nên, quí vị
nên kết thân tâm pháp duyên với ông/bà…, đừng nên
gây chướng ngại cho ông/bà…, mà hãy cùng niệm Phật
với chánh niệm để cầu sanh về Tây phương Cực Lạc
quốc.
Giờ đây
xin khẩn cầu quí vị và các thân hữu hãy nhất tâm
niệm Phật để giúp đỡ ông/bà… được vãng sanh Tây
phương Cực Lạc quốc, hoàn thành Phật sự. Vô lượng
công đức sẽ hồi hướng cho quí vị thoát mọi khổ ải và
được an lạc.
Cầu xin
quí vị hãy vì nhân duyên thù thắng này mà phát tâm
Bồ-đề, với lòng tin tưởng sâu sắc mà niệm Phật cầu
sanh Tây phương Cực Lạc quốc, toại nguyện vô lượng
Phật độ.
Nam mô
A-di-đà Phật.
VII.3.
Căn dặn dự bị
lúc lâm chung
Trường hợp sợ người
thân mình không làm đúng theo chánh pháp, lúc còn
sống quý vị nên viết một bản di chúc dặn dò con
cháu. Trong lời dặn dò, người viết nên tập trung dặn
kỹ con cháu người thân phải làm mọi việc cần thiết
giúp mình vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà.
Xin gợi ý nội dung lời dặn như sau:
Ông/Bà
tên …, pháp danh:…
Các con
cháu và mọi người trong gia quyến hãy nghe theo
những lời ông/bà căn dặn những điều như sau:
Cả một đời ông/bà
quy y Tam bảo, chuyên niệm Phật A-di-đà, được hưởng
nhiều sự lợi ích tốt lành. Nếu các con cháu và người
thân nếu thật sự có lòng hiếu thảo thì phải nghe
theo lời của ông/bà, giúp ông/ bà được sanh về cõi
Phật A-di-đà. Đó mới là sự báo hiếu lớn nhất.
Ông/bà sẽ mãn nguyện ra đi.
Các con phải biết,
con người khi sắp tắt thở, giống như con rùa bị lột
xác, vô cùng đau khổ. Nếu các con thậy lòng muốn cho
ông/bà được chết tốt lành, mong toàn thể các con
phải vì ông/bà mà hoàn thành tốt tâm nguyện của
ông/bà.
Khi thấy ông/ bà bị
bệnh, nhất là lúc hấp hối, con cháu hãy làm theo
những lời căn dặn như sau:
1.
Lập tức đi mời ban Trợ niệm đến niệm Phật cho ông/
bà. Khi ban Trợ niệm đến, gia đình phải nghe theo
sự hướng dẫn của họ, không được làm trái ngược. Nếu
có chư Tăng đến, con cháu phải hết lòng cung kính.
2.
Khi ban Trợ niệm niệm Phật, gia đình không được động
đậy, di chuyển, thân thể để tắm rửa, thay quần áo
cho ông/bà; lại càng không được gào thét, khóc lóc,
kể lể, than van. Con cháu phải giữ gìn cho yên lặng
và cùng trì niệm câu Phật hiệu A DI ĐÀ PHẬT, hết
lòng cầu Phật tiếp dẫn ông/bà vãng sanh về cõi Phật.
3.
Trường hợp ông/bà bị hôn mê bất tỉnh, hơi thở sắp
tắt, thì con cháu không được mời bác sĩ đến chích
thuốc, hô hấp hoặc làm những việc cấp cứu khác để
tránh tâm lý ông/bà bị dao động hoặc gia tăng sự
đau khổ. Các con cháu phải vì ông/ bà mà thành tâm
niệm Phật. Như thế mới là người con, người cháu hiếu
thảo.
4.
Khi ông/bà tắt thở trong vòng 24 tiếng đồng hồ, con
cháu phải cố giữ tiếng niệm Phật sao cho không được
gián đoạn, phải luân phiên niệm Phật trong vòng 24
tiếng đồng hồ. Sự trợ niệm vào giờ phút này cho ông/
bà là sự giúp đỡ vô cùng to lớn. Con cháu có thương
ông/bà, thì không gì hơn là ngay lúc này niệm Phật
A-di- đà.
5.
Còn việc thay quần áo, nhập liệm, tang lễ, tụng kinh
phải chờ qua 24 giờ mới được tiến hành. Trừ trường
hợp, thời tiết khí hậu oi bức, sợ có mùi hôi thối,
thì nên tùy duyên, con cháu có thể đốt nhang trầm
hoặc để nước bên cạnh thi thể ông/bà.
6.
Trước và sau tang lễ và trong suốt 49 ngày, việc
cúng tế đãi khách… toàn bộ phải dùng đồ chay, tuyệt
đối không được sát sanh để tránh gia tăng nghiệp tội
cho ông/bà. Toàn thể gia đình nên ăn chay, niệm
Phật, làm các việc thiện lành, hồi hướng cho ông/bà.
Được như vậy, ông/bà mới hưởng niềm vui an lạc. Con
cháu nhờ đó cũng hưởng sự vui sướng cát tường, tương
lai tươi sáng.
7.
Việc tang lễ, cúng tế phải theo nghi thức của Phật
giáo, lấy việc niệm Phật làm chính, con cháu không
được phô trương rầm rộ, phung phí tiền của, cần
phải tiết kiệm.
Ông/bà hy
vọng từ đây về sau cả gia đình phát tâm tin Phật,
niệm Phật. Làm được vậy, con cháu nhất định hưởng
được sự bình an hạnh phúc. Mong các con, các cháu
nghe theo và làm theo đúng như lời ước nguyện của
ông/bà.
Nam mô A- di- đà
Phật
Người nói…
Người làm chứng….
VII.4.
Nội
dung các tờ thông báo
Trước
khi trợ niệm, người trưởng ban yêu cầu gia đình dán
các tờ thông báo lên những nơi mọi người có thể
trông thấy. Nội dung những thông báo này yêu cầu
thân nhân không được khóc lóc, kể lể, đụng chạm đến
người bệnh, mà phải cùng niệm Phật để đưa người vãng
sanh về Tây phương. Một vài gợi ý về thông báo như
sau:
1.
Tờ
thông báo số 1
XIN
NHỚ KỸ:
Khi
lâm chung trong vòng 8 giờ sau, nếu bị va chạm mạnh,
hoặc người thân khó than kêu réo, người ra đi sẽ dễ
bị đọa lạc. Xin một lòng niệm NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT,
cầu nguyện cho người được vãng sanh về thế giới Tây
phương Cực Lạc.
Tuyệt đối XIN ĐỪNG KÊU KHÓC KHI NGƯỜI BỆNH LÂM CHUNG
Chân thành đội ơn sâu nặng!
2.
Tờ
thông báo số 2
HỘ
NIỆM
Hiếu thảo, thương kính người ra đi, con cháu và
người thân phải quyết tâm hộ niệm bằng cách túc trực
bên cạnh để NIỆM PHẬT SUỐT NGÀY ĐÊM trước giờ ra đi,
lúc lâm chung và tiếp tục 8 hoặc 12 giờ sau.
CẤM
KỴ: kêu khóc, ồn ào, va chạm mạnh đến người bệnh.
VII.5.
Cách
cúng tế hương linh:
1.
Trước bàn Phật: cúng hoa tươi + trái cây +
nước trắng.
2.
Trước
bàn linh:
mỗi ngày cúng cơm 3 lần (thức ăn chay):
-
Sáng: cháo, thức ăn đậu hũ
-
Trưa và tối: 1 chén cơm + 1 đôi đũa + 1 mâm
để 6 món thức ăn + 1 ly nước trong + trái cây (mỗi
ngày phải thay mới).
3.
ngày đi chôn (hoặc thiêu):ngày
an táng;
-
Trước bàn Phật: cúng hoa tươi + nước + 4 loại
trái cây (mỗi ngày phải thay mới) + 1 chén cơm nhỏ +
6 chén nhỏ thức ăn + 1 ly nước trắng.
-
Trước bàn linh: cúng 1 chén cơm + 1 đôi đũa + 6
chén nhỏ thức ăn + 1 ly nước trắng + hoa tươi + 4
loại trái cây.
-
Trước bàn cúng tế: cúng 12 đĩa thức ăn + 1 dĩa
trái cây
- Tụng
kinh A-di-đà, hồi hướng (Nếu không thỉnh được
Tăng, cư sĩ tại gia có thể tiến hành như trên đã
nói).
4.
Sau
khi chôn cất xong:
không cần phải cúng cơm mỗi ngày 3 lần.
5.
Trong
7 thất (49 ngày):
Mỗi
thất: tụng kinh A-di-đà + niệm trăm danh Phật
hiệu + cúng ngọ +hồi hướng (Phần cúng ngọ có thể
chiếu theo cách cúng trong ngày an táng).
VII.6.
Các ban Trợ niệm, Hộ
niệm hiện có
Từ lâu, ở
một số nước thịnh hành pháp môn Tịnh độ đều có nhiều
ban Trợ niệm hoạt động rất tốt, đưa nhiều người vãng
sanh Tây phương Cực Lạc. Việt Nam hiện nay cũng có
một vài ban, nhóm Trợ niệm hoạt động rất có hiệu
quả. Mô hình, phương thức hoạt động trợ niệm đều
tham khảo theo phương thức của Tịnh tông học hội Úc
châu, do hòa thượng Tịnh Không chủ trương (như các
cách nói trên). Có một số ban Trợ niệm cẩn thận ghi
lại hình ảnh của một số trường hợp vãng sanh có biểu
hiện tướng tốt đẹp. Phật tử nên biết địa chỉ của các
ban ấy để dễ dàng liên hệ khi cần thiết hoặc để tham
gia.
1.
Ban Trợ niệm do Đại đức Thích Giác Chỉ hướng dẫn:
Địa
chỉ liên hệ:
Số điện thoại:
2.
Ban Trợ niệm do cư sĩ Diệu Thường hướng dẫn:
Địa
chỉ liên hệ:
Số điện thoại:
3.
Ban Trợ niệm do cư sĩ ______________ (chùa Hoằng
Pháp) hướng dẫn:
Địa
chỉ liên hệ:
Số điện thoại:
4.
Ban Trợ niệm do cư sĩ ______________ (chùa
_______________) hướng dẫn:
Địa
chỉ liên hệ:
Số điện thoại:
TỊNH THẤT TỪ NGHIÊM
ngày 21 tháng 10 năm
2006
Tỳ kheo Thích Nhuận
Nghi
Cẩn biên