Trong
lịch sử phong kiến Trung Quốc, phần đông các vị vương của các triều
đại đều kính tín Phật pháp. Nói đến sự thịnh trị của các triều đại, nhà
Đường là một trong những triều đại tồn tại lâu nhất. Đế chế này có 21 đế
vương ở ngôi, trị vì tổng cộng 288 năm, chưa kể những đế vương trong
thời Hậu Đường. Ở vào thời này, có không biết bao thiền sư, đại sĩ, cao
tăng, danh tăng nối nhau hoằng dương Phật pháp, làm tông chủ một thời,
đưa Phật giáo lên đến đỉnh cao của sự hưng thịnh. Bên cạnh những thiền
sư xiển dương Phật pháp, truyền trì mạng mạch, các ngài như: Nghĩa Tịnh,
Huyền Tráng, Pháp Tạng, Đạo Tuyên, Khuy Cơ, Trừng Quán v.v… đã góp phần
không nhỏ cho nền lịch sử Phật giáo Trung quốc, bình sinh đế vương kính
trọng, xả thân sử sách lưu danh.
Trải
suốt chiều dài lịch sử, triều đại nào cũng vậy, song song với những
quân vương, đại thần hết mình hộ trì Phật pháp, có không ít nhân chủ,
quan lại bài xích Sa môn, tàn diệt Phật giáo. Riêng trong nhà Đường, đế
vương như: Cao Tổ, Vũ Tông; đại thần như: Phó Dịch, Lý Huấn, Hàn Dũ v.v…
đều là những người cật lực chủ trương chống đối Phật giáo. Trong hàng
quan lại của triều đình, Hàn Dũ (768-824) là nhân vật tương đối đặc
biệt. Ông vừa là mệnh quan có quyền cao chức trọng trong triều, vừa là
nhà văn nổi tiếng trên văn đàn. Đọc qua một số văn phẩm của ông trong Cổ
văn quan chỉ, chúng ta thấy rõ tài học vấn uyên bác, lý luận sắc bén,
tư tưởng vượt trội của ông, cũng như đỉnh cao của nền văn học, nghệ
thuật đương thời. Hàn Dũ tự Thoái Chi, quê ở Xương Lê, đỗ tiến sĩ, giữ
chức Hình bộ Thị lang dưới thời Đường Hiến Tông. Do dâng biểu can ngăn
vua rước xá lợi, nên bị đày đến làm Triều Châu thứ sử, sau đổi làm Viên
Châu thứ sử, bái phong chức Quốc Tử Tế tửu, chuyển làm Lại bộ Thị lang.
Ông mất, vua Đường truy tặng chức Lễ bộ Thượng thư, truy thụy là Văn
công. Đời Tống, trong năm Nguyên Phong, ông được truy phong tước Xương
Lê bá. Trong số này, GN xin trích đăng tờ biểu bài xích Phật giáo của
Hình bộ Thị lang Hàn Dũ và cơ duyên Thiền sư Đại Điên khai thị cho ông,
để thấy những nhận thức sai lệch của Hàn Dũ đối với Phật giáo và sự
chuyển hóa tâm thức của ông khi hội ngộ vị thiền sư nổi tiếng trong lịch
sử Phật giáo Trung Hoa: Đại Điên.
* * *
Tháng Giêng năm Nguyên Hoà thứ 14 (820), Đường Hiến Tông rước
xá lợi Phật từ chua Pháp Môn ở Phụng Tường vào cung. Vua ngự ở An Phước
môn nghinh bái, giữ lại trong cung cúng dường ba ngày rồi đưa đến các
chùa. Vương công, quan dân đua nhau đến lễ bái. Tăng chúng uy nghi tề
chỉnh, tấu nhạc của Thái Thường, Vạn Niên, Trường An, cờ xí rợp trời,
trống chiêng tưng bừng, diễu khắp phố xá.
Hình bộ Thị lang Hàn Dũ dâng biểu can rằng: “Phật là một trong những
phép của mọi rợ, lưu nhập vào Trung Quốc từ thời Hậu Hán chứ thời thượng
cổ chưa từng có. Xưa Hoàng đế ở ngôi 100 năm, thọ 120 tuổi; Thiếu Hạo ở
ngôi 80 năm, thọ 100 tuổi; Chuyên Húc ở ngôi 79 năm, thọ 98 tuổi; Đế
Khốc ở ngôi 70 năm, thọ 105 tuổi; Đế Nghiêu ở ngôi 98 năm, thọ 118 tuổi;
Đế Thuấn và ông Vũ cũng đều thọ cả trăm tuổi. Lúc này thiên hạ thái
bình, trăm họ an vui, sống lâu trăm tuổi, nhưng Trung Quốc chưa từng có
Phật. Kế đó vua Thang cũng thọ trăm tuổi, cháu vua Thang là Thái Mậu ở
ngôi 75 năm; Vũ Đinh ở ngôi 59 năm, sách sử không ghi họ thọ bao nhiêu,
nhưng cứ theo năm ở ngôi mà tính chắc chắn họ sống không dưới trăm tuổi.
Chu Văn vương thọ đến 97 tuổi, Vũ vương thọ 93 tuổi, Mục vương ở ngôi
cả trăm năm, nhưng lúc này Phật pháp cũng chưa truyền vào Trung Quốc, rõ
ràng không phải nhờ thờ Phật mà được như vậy. Thời Hán Minh đế mới có
Phật pháp. Minh đế chỉ ở ngôi có 18 năm, sau đó thì liên tục loạn lạc,
vận nước ngắn ngủi. Tống, Tề, Lương, Trần, Nguyên, Ngụy về sau thờ Phật
càng nghiêm cẩn, nhưng niên đại càng ngắn. Chỉ có Lương Vũ đế ở ngôi 48
năm, cả thảy ba lần xả thân thờ Phật, tế tự tông miếu không giết sinh
vật, ngày ông ăn một bữa, chỉ ăn rau dưa, sau bị Hầu Cảnh bức ngăt chết
đói ở Đài thành, đất nước cũng diệt vong, thờ Phật cầu phước trái lại bị
tai ương. Từ đó mà xét, đủ thấy Phật không đáng tin. Cao Tổ mới nhận
ngôi nhà Tùy liền bàn dẹp trừ đi, lúc ấy quần thân thấy biết cạn cơt,
không thấu hiểu đạo của Tiên vương. Thần hận rằng, những đế vương thánh
minh xuất thế cứu cái tệ cho đời từ xưa đến nay nhưng lại không được
nhắc đến, cúi mong Duệ Thánh Văn Vũ Hoàng đế Bệ hạ minh giám! Trong mấy
trăm ngan năm lại đây chưa có ai sánh bằng họ.
“Vừa mới lên ngôi, Cao Tổ đã không cho độ dân làm Tăng Ni, không cho
đạo sĩ dựng Tự quán riêng. Lúc ấy thần cứ nghĩ chí nguyện của Cao Tổ sẽ
được Bệ hạ thi hành, giả sử chưa thể thi hành thì cũng đâu thể để bọn họ
lớn mạnh thêm lên? Nay Bệ hạ sai cả bầy Tăng rước xương Phật ở Phụng
Tường, còn mình ngự trên lầu cao xem, cho bọn họ đưa vào đại nội, lại
còn cho các chùa thi nhau cúng dường. Thần tuy ngu muội, nhưng biết chắc
Bệ hạ không bị mê hoặc Phật mà sùng phụng như vậy, mà cốt là cầu vận
nước lâu bền, muôn dân an lạc, thuận theo lòng người bày trò lạ mắt để
quan dân ở kinh đô xem. Đó chỉ là trò đùa, lẽ đâu quân vương sáng suốt
lại chịu tin và làm như vậy! Bá tánh ngu muội dễ bị mê hoặc đã xong, còn
như Bệ hạ anh minh đến thế mà cũng tin theo, muôn dân tất sẽ nói:
“Thiên tử là bậc Đại thánh mà còn một lòng tin theo, bá tánh so với Phật
quá thấp hèn lẽ đâu lại tiếc thân mệnh”. Nhẫn đến lắm kẻ tụm năm tụm
bảy đốt tay đốt đầu. Rồi đây sẽ có không biết bao kẻ cúng áo, vãi tiền
suốt từ sáng đến tối. Cứ thế bắt chước làm mãi, sợ rằng về sau cả già
lẫn tre cứ bôn ba, bỏ hết công ăn việc làm. Đã không cấm cản ngay lại
còn cho đưa đến các chùa, ắt có kẻ chặt tay phanh xác để cúng dường, làm
bại hoại phong tục, làm trò cười cho thiên hạ. Đó đâu phải việc nhỏ!
“Phật vốn là người mọi rợ, không cùng ngôn ngữ với nước ta, ăn mặc
quái dị, miệng không biết nói phép tắc của tiên vương, thân không biết
mặc pháp phục của tiên vương, chẳng biết đạo nghĩa vua tôi, chẳng biết
tình thân phụ tử. Giả sử Phật kia còn sống, tất sẽ làm theo quốc mệnh
đến nước ta triều cống, Bệ hạ thương tình mà tiếp ông ấy, bất quá tuyên
chiếu tiếp đãi như khách, ban cho một cái áo, cho một đoàn hộ vệ đuổi ra
khỏi nước để khỏi mê hoặc mọi người. Huống gì, ông ấy đã chết lâu rồi,
xương cốt tiêu tan, chút hôi hám còn lại này há đáng đem vào cung cấm ư!
Khổng Tử nói: “Với quỷ thân thì kính nhưng lánh xa họ”. Ngày xưa chư
hầu viếng tang những nước ở mọi rợ, phải sai đồng cốt trù ém, trước dùng
đào để trấn quỷ, dùng chổi lau quét hết những điểm chẳng lành, sau đó
mới vào điếu tang. Nay Bệ hạ vô cớ đem vật xú uế vào cung, đích thân đi
xem, trước chẳng dùng đồng cốt trù ém, sau chẳng lây đào, chổi lau trừ
khử điềm chẳng lành, quần thần chẳng vạch sai, ngự sử chẳng chỉ trái,
thần thật xấu hổ! Dám xin Bệ hạ cho đem khúc xương ấy vất xuống nước,
vùi vào lửa để đào sạch gốc rễ, đoạn mối nghi cho thiên ha, chặt mê lầm
cho đời sau, khiến bàn dân thiên hạ biết việc làm của bậc Đại thánh vượt
hẳn thói tầm thường. Như Phật có thiêng hay ban phước giáng họa, thì
hãy đổ tất cả tai ương lên đầu thần. Mong trời cao chứng giám, thần
quyết không oán hận”.
Vua nổi giận, cầm tờ biểu đưa cho Tể tướng bảo lôi Dũ ra chém. Bùi
Độ, Thôi Quần, can: “Dũ nói năng ngỗ ngược, tội thật đáng chết, nhưng
nếu trong lòng không ôm chí trung thì đâu dám nói như vậy, mong Bệ hạ
khoan dung để sau này còn có người đến can gián”.
Vua nói: “Dũ nói ta phụng Phật thái quá, tội ấy còn có thể dung tha;
còn như bảo rằng Thiên tử từ Đông Hán về sau thờ Phật đều bị chết sớm,
Dũ là bề tôi mà dám ngông cuồng đến như vậy, lẽ đâu tha được!”.
Vương công, cựu thần liều chết xin cho, Dũ mới được tha chết, bị đày
đến làm Triều Châu thứ sử. Vừa mới đến Triều Châu, Dũ dâng biểu ai tạ
khuyên vua, đông phong Thái sơn, nhưng lâu ngày chẳng có tin báo. Nhân
đi tế thần ở Hải Thượng, Dũ lên Linh Sơn gặp Thiền sư Đại Điên. Đại Điên
hỏi Dũ:
- Ông về Nam làm quan nghe đâu do nói năng thẳng thắn, nay
trông ông u sầu như có điều không vừa lòng là tại sao vậy?
Dũ đáp:
-
Dũ tôi được trọng dụng trong triều, hưởng bổng lộc hậu hỷ, một sớm lời
ngay không được dùng, mất chức Hình bộ Thị lang, bị đày đến Hải Thượng
xa hơn 8.000 dặm, vượt qua biển núi, vợ con chết cả. Lúc đến Triều
Dương, gặp phải cá dữ sóng to, tai họa khôn lường, sương độc khí bệnh,
ngày đêm phát tác, bệnh càng thêm nặng, tóc bạc răng rụng. Nay lại bị
đày đến chỗ không người như vầy, mạng sống này há giữ được ư! Trên đường
đến đây, tôi ghé miêu Quảng Lăng cầu khấn, may nhờ sức thần chết quách
cho khỏi lo, để Chúa thượng đem công trung hưng của tôi viết trên tấu
chương, sai Định Lạc Chương tấu công với thần minh, về đông lên Thái sơn
tấu công với Hoàng thiên, nếu may ra toại ý thì ngõ hầu được Chúa
thượng triệu Dũ này về, thuật làm thơ ca công đức mà tế ở Giao miếu vậy.
Tôi ngày đêm trông ngóng nhưng vẫn bặt tin tức, sốt ruột mong về mau
thì làm sao vui được!
Đại Điên nói:
- Lời thẳng thăn của ông trong triều là trung với
vua không đếm xỉa đến thân mình, hay là vì bản thân mình nói càn để chạy
theo danh? Trung với vua chẳng đếm xỉa đến thân, nếu lời ấy được dùng
thì ông được vinh hoa, còn vua không nghe thì ông bị mất chức, đó là lẽ
tất nhiên, cớ gì phải ôm ấp mãi trong lòng làm gì! Còn nếu vì bản thân
rồi nói càn, lời ấy vua nghe thì ông được tiếng là ngay thẳng, hưởng cái
lợi từ lời nói, nếu vua không nghe thì tất bị đuổi, đó cũng là lẽ dĩ
nhiên. Nếu trung mà bị đuổi, thì sao ông đừng nói có hay hơn không! Tôi
nghe, kẻ làm bề tôi không chọn nơi yên mà ở, không lượng thế mà đi, nay
ông bị đuổi cho nên không vui, xu thời mà chạy theo danh, quả không phải
là bê tôi trung chánh. Vả lại, sống chết họa phước của ông lẽ đâu không
treo trên trời? Ông bên trong thật tâm tu sửa, bên ngoài hãy chịu mệnh
đi! Ở Quảng Lăng ấy há tạo phước cho ông được chăng? Chúa thượng vì gian
tà tranh nước, lo thảo phạt không rảnh tay, chỉ có thể dẹp yên nhưng
mầm mống chưa dứt hẳn. Ngay lúc này đây, ông lại muốn phong Thiền cáo
công để sách loạn thiên hạ, chủ ý là để mình được về triều, ông nhẫn tâm
làm được ư! Còn nữa, do cùng quẫn, bấn loạn rồi cầu khấn quỷ thần là
ông không biết Mệnh; náo động thiên hạ nhưng chẳng đếm xỉa, cốt có lợi
cho mình mà thôi là ông không biết Nhân; nói càn để chứng tỏ mình trung,
gặp khốn thì uất ức bi lụy là ông không biết Nghĩa; lấy loạn làm trị để
cáo với Hoàng thiên là ông không biết Lễ, ấy vậy mà ông vẫn làm. Ông bị
đày là do nói việc gì?
Dũ đáp:
- Chúa thượng rước xương Phật vào đại nội, tôi cho Phật là
phép tắc của mọi rợ, thời Tam đại không có Phật nhưng vận nước lâu bền;
Tống, Lương, Ngụy thờ Phật nhưng không chết yểu thì cũng loạn lạc. Tôi
sợ Chúa thượng bị mê hoặc cho nên không nghĩ đến bản thân ra sức bài
xích.
Đại Điên nói:
- Nếu vậy thì ông nói sai rồi. Phật là Đại thánh che
khắp trời người. Đạo Phật thấu tỏ vạn vật mà lập ngôn, lời Phật thấu
cùng lý của tánh mệnh, giáo pháp thì bỏ ác hướng thiện, bỏ ngụy về chân.
Phật đối với thiên hạ như cha đối với con, nhưng ông phỉ báng thì chẳng
khác nào con lại đi giết cha. Tôi nghe, người khéo quán sát người khác
là xem đạo của họ tồn tại thế nào, chứ không so đo nơi họ ở. Vua như
Kiệt, Trụ; bề tôi như Chích, Kiều đều là người Trung Quôc nhưng đâu thể
noi theo, vì họ là kẻ vô đạo. Thuấn sanh ở Đông Di, Văn Vương sanh ở Tây
Di, Do Dư sanh ở rợ Nhung, Quý Trát sanh ở rợ Man, hai Thánh hai Hiền
ấy lẽ nào ông cho là mọi rợ mà không bắt chước họ chăng? Nay ông chẳng
suy xét đạo Phật cứ chê suông là mọi rợ, sao lại ăn nói hồ đồ đến thế!
Ông cho rằng thời thượng cổ không có Phật nên không noi theo ư? Vậy thì
Khổng, Mạnh sanh trong thời suy Chu, nhưng Xi Vưu, Cổ Tẩu sanh ở thời
thượng cổ, lẽ đâu ông bỏ Thánh hiền của suy Chu mà bắt chước kẻ hung tàn
của thượng cổ? Ông cho rằng thời Ngũ đế, Tam vương chưa có Phật nhưng
sống lâu, vậy Ngoại Bính ở ngôi 2 năm, Trọng Nhâm ở ngôi 4 năm, không
phải chết yểu đó sao? Thư Vô Dật nói: “Từ đó về sau cũng không ai sống
lâu, có người 10 năm, có người 20 năm”. Ông bảo thời Hán, Trần nhân chủ
chết yểu và loạn, thì Hán Minh đế là anh chủ một thời, Lương Vũ đế thọ
đến 86 tuổi, há cũng chết yểu hay loạn ư!
Dũ nói:
- Phật mà Thầy nói đó, miệng không giảng dạy phép tắc của
tiên vương, lại rêu rao bừa bãi thuyết luân hồi sanh tử, thân chẳng làm
được chút nhân nghĩa trung tín, nhưng dối lập ngọn nguồn báo ứng họa
phước, không có cái nghĩa vua tôi, chẳng có tình thân phụ tử, dạy đồ
chúng chẳng cày bừa nhưng có cái ăn, chẳng dệt nhuộm nhưng có cái mặc,
làm bại hoại đạo của tiên vương, Dũ này há im lặng mà không chỉ trích
được sao!
Đại Điên nói:
- Quá lắm rồi! Ông chẳng thấu đạt gì cả! Có người ở
đây cả ngày đếm đến 10, nhưng chẳng biết hai nhân với năm là mấy, người
ấy tất bị cho là kẻ điên. Ông trọn ngày nói đến nhân nghĩa trung tín,
nhưng chẳng biết Phật nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thật ra chẳng khác,
không phải là đếm mười nhưng chẳng biết hai nhân với năm là mấy đó ư! Có
phải ông đọc sách Phật rồi cho Phật lập dị với tiên vương không?
Dũ đáp:
- Dũ tôi rảnh đâu để đọc sách Phật!
Đại Điên nói:
-
Ông chưa từng đọc sách Phật thì làm sao biết Phật không nói đến phép tắc
của tiên vương? E rằng ông chưa từng đọc sách của Khổng Tử lại nghi ngờ
đạo Khổng sai, hay là ông nghe người ta nói sai ông liền cho nó sai?
Nếu ông chưa từng đọc sách của Khổng Tử nhưng lại cho đạo Khổng sai, thì
đó là “chó của vua Thuấn”. Nếu ông nghe người ta nói sai ông liền cho
nó sai, thì đó là “đàn bà”. Xưa, vua Thuấn nuôi con chó, nó chỉ biết có
vua Thuấn. Ngày nọ, thấy vua Nghiêu đi ngang, con chó liền nhảy xổ ra
cắn. Không phải nó mến ông Thuấn ghét ông Nghiêu, mà do người nó thường
gặp là ông Thuấn chứ chưa từng gặp ông Nghiêu bao giờ. Tôi lại nghe, con
gái về nhà chồng, mẹ tiễn đi. Hễ về bên chồng rồi, cô dâu nọ ắt phải
kính, phải vâng lời, không được trái ý chồng. Ông đâu thể chạy theo cái
sai của người khác mà chẳng khảo xét nguyên do, liền cho nó sai. Phàm
luân hồi sanh tử không phải vọng lập, đó là chí số của trời đất, là lý
mầu của u minh. Theo lý muôn vật mà xét, hễ những gì có hình có tướng
trong khoảng trời đất này đều chết đi sống lại, thay nhau tuần hoàn. Gốc
rễ cỏ cây ăn sâu trong đất, nhờ ánh sáng mặt trời mà đâm chồi nảy mầm,
sanh cành sanh lá, đơm hoa kết trái. Thiếu không khí thì nó héo rồi khô,
đến khi hội đủ điều kiện sống thì nó tươi tỉnh trở lại. Hoặc chặt đi nó
lại đâm chồi mới, tính nó khôi phục, có gì lạ đâu! Khổng Tử nói: “Có
khởi đầu tất có kết thúc”, nên biết đó là thuyết sống chết. Hễ kết thúc
thì khởi đầu trở lại, đó là sự vận hành của trời đất. Huống gì con người
lẽ đâu không chết để tái sanh lại ư! Trang Tử nói: “Vạn vật ra khỏi
chân tính rồi vào lại chân tính”. Giả Nghị nói: “Hóa làm loài khác có gì
phải lo”. Đó đều là thuyết luân hồi, chẳng đợi Phật nói mới rõ, nên ông
đâu thể cho là vọng tạo. Còn nữa, ông cho họa phước bao ứng là dối lập
thì càng thấy rõ ông quá sai lầm rồi. Phám quả báo thiện ác đề là sự
tương ứng tự nhiên của chân lý. Kinh Dịch ghi: “Tích thiện thì an vui
mãi, tích ác thì tai ương hoài”. Lại nói: “Quỷ thần hại nhiều nhưng
phước ít”. Tăng Tử nói: “Cẩn thận! Cẩn thận! Cho thứ gì thì nhận lại thứ
nấy!”. Đó đều là thuyết báo ứng cả. Chỉ có Phật là người hay thương xót
đến họa phước của con người, nên nêu bày tỏ rõ, rằng đó là lý ắt phải
đến, khiến con người không tự vùi mình trong ấy, lẽ đâu là vọng tạo? Ông
lại cho rằng Phật không có cái nghĩa vua tôi, không có tình thân cha
con, nhưng đó lại là điều ông không thể hiểu đến được. Muôn việc trên
đời vốn có cái thuộc cõi này, có cái vượt ngoài cõi này. Nếu trong cõi
này thì mọi người tuân thủ nó, còn như ngoài cõi này thì chẳng phải bậc
thần thánh trong thiên hạ ắt không thể hiểu được. Bởi vậy, những lời dạy
của Thánh nhân, có điều nói để mọi người tuân thủ, có điều nói cho thần
thánh trong thiên hạ. Mỗi bên nhận lãnh khác nhau. Đạo mà Khổng Tử nói
là khuôn phép chí cực, vô tư vô vi, vắng lặng chẳng động, cảm thì liền
thông, không phải là điều ma mọi người cùng nhận hiểu. Nếu mọi người vô
tư vô vi, thì lý trong thiên hạ này đã dứt mất rồi. Đó là điều ông không
thể không biết. Phật nói cho kẻ bề tôi ắt dựa vào lòng trung, nói cho
phận làm con ắt dựa trên tâm hiếu, đó là nói cho mọi người cùng tuân
thủ. Có những điều Phật nói nhắm đến cái Vô tâm nhưng chẳng phải chỉ có
Vô tâm, nhắm đến cái Vô ngã nhưng chẳng phải chỉ có Vô ngã mà còn nhắm
đến Vô sanh. Như vậy, trình tự âm dương không thể loạn, số mệnh trời đất
chẳng đổi dời, nên đương nhiên là có vua tôi cha con trong ấy. Điều đó
kẻ thấy ít nghe cạn nói được ư! Ông lại nghe, đệ tử Phật không cày không
dệt nhưng có cái ăn cái mặc, còn như đạo Nho cũng không cày không dệt
thì sao?
Dũ đáp:
- Đạo Nho được đế vương tin dùng nên hưởng vinh hoa phú
quý. Đệ tử họ biết theo Hiếu, Nghĩa, Trung, Tín, nên dù không cày, không
dệt nhưng đâu có ăn bám!
Đại Điên nói:
- Ông nói như vậy thì đệ tử Phật cũng có lợi ích
không nhỏ cho người rồi. Bọn ông cho rằng sau này chẳng có ai ăn bám
bằng Phật, nhưng ông có nghĩ rằng hiện nay không có ai ăn bám bằng
Khổng, Mạnh không? Nay ta nói cho ông biết, lý của nhà Phật bao trùm
muôn phương vì nó không có bản chất, đã nhiệm mầu lại còn nhiệm mầu hơn.
Giống như trời ở trên cao, con người tồn tại bên dưới, trọn ngày khen
trời nhưng trời chẳng đầy thêm, trọn ngày chê trời nhưng trời chẳng vơi
bớt. Như vây khen chê đều sai cả. Từ nhà Hán đến nay trải qua lâu ngần
ấy năm, sự vật trong thiên hạ thay đổi cũng nhiều ngần ấy, trời đất thần
minh, thuyết nhà Phật vận hành trong đó, kẻ không dám luận bàn lại gạt
phắt đi, ắt là dám che trời đất nhưng không biết hổ, dám lấp trăm thánh
mà chẳng biết thẹn. Diệu lý tồn tại trong đó rồi sau mới đến nơi này.
Ông hãy suy nghĩ cho kỹ đi!
Dũ nói:
- Không phải tôi chê Phật lập dị, bởi Đạo mà tôi muốn nói
ở đây, tinh thần Bác ái là Nhân. Làm việc hợp tình người là Nghĩa. Dựa
trên nền tảng đó mà làm gọi là Đạo. Tự thân biết đủ, không dựa dẫm người
khác thì gọi là Đức. Nhân và Nghĩa chỉ là định danh, Đạo và Đức chỉ là
hư vị. Những thứ đó không giống với Đạo mà Khổng Tử nói đến.
Đại Điên nói:
- Khổng Tử đâu không nói: “Đặt chí trong Đạo, sống
trong Đức, dựa trong Nhân, dạo trong Nghề”. Bởi Đạo là hạnh đầu tiên
trong trăm hạnh. Nhân đâu đủ để gọi là Đạo. Sáu Đức mà Chu công nói gồm:
Tri, Nhân, Tín, Nghĩa, Trung, Hòa, đủ thấy Đức là ngọn nguồn của nhân
nghĩa, mà nhân nghĩa chỉ là một phần của Đức, lẽ đâu ông cho đạo đức là
hư vị? Tử Cống lấy việc cứu giúp khắp người khác làm Nhân, Khổng Tử thất
sắc hỏi: “Sao ông lại tôn thờ Nhân, Nhân đủ để làm Thánh chăng?”, rõ
ràng Nhân cũng chưa đủ để gọi là Thánh, ông đâu biết điều mà Khổng Tử
nói đến. Nay ta nói cho ông biết, hễ học thì phải khảo cứu đến cái sâu
xa của Đạo, Đạo mà sâu xa thì chí của ta sẽ không ai lường được, đến lúc
đó ắt người khác cho mình là hiền tài. Họ cho mình hiền tài chính là ở
chỗ này, trái lại ta cho họ sai thì rõ ràng tâm ta có điều gì đó chưa
biết hết. Vì vậy, tư duy cho sâu điều đúng của họ, cố sức mà tìm ngõ hầu
sẽ phát hiện ra. Nay ông cậy mình thông suốt cái học của dị phương
trong thiên hạ, ỷ tài văn chương bàng bạc, nhưng có bằng La Thập trong
đời Diêu Tần không? Ông tới lui trong cái biết của mình nhưng có bằng
Phật Đồ Trừng trong thời Tấn không? Ông hiểu thấu vạn vật, chẳng động
tâm mình nhưng có bằng Bảo Chí trong thời Lương không?
Dũ im lặng một lát rồi đáp:
- Dũ tôi không bằng!
Đại Điên nói:
- Tài của ông đã không bằng họ, người mà họ tôn thờ
trái lại ông cho là sai, vậy thì người có tài cao hơn ông lẽ đâu lại
không biết cái biết của ông chăng? Nay ông khư khư vì bản thân mình, tới
lui trong thanh sắc lợi dục, bị phật ý một chút liền phẫn uất bi lụy.
Nếu ngay đây ông không chịu đựng được thì khác gì lũ ruồi nhặng tranh
cặn bã trong đống đồ dơ đâu!
Khi đó, Dũ trố mắt không chớp, hào khí tiêu tan, bàng hoàng như đánh
mất thứ gì, liền nói với Đại Điên:
- Ngay đây tôi hết lời rồi!
Đại Điên nói:
- Ta sở dĩ nói cho ông biết vì nhắm vào tài năng của
ông chứ không phải nhắm vào cái mà ông đạt đến.
Dũ thưa:
- Dũ tôi mê muội, xin muốn được nghe điều mình sẽ đạt
đến!
Đại Điên nói:
- Thành thật với lòng mình, thấu cùng tánh mệnh, tỏ
lý vạn vật, thấu được mệnh trời, sau đó ta sẽ nói cho ông nghe. Bây giờ
ông đi đi, ta không nói với ông nữa!
Hàn Dũ đứng dậy ra đi.
Tháng 8, vua và Tể tướng bàn chuyện, thấy Dũ cũng đáng thương nên
trao cho Dũ chức Viên Châu thứ sử. Dũ dựng lại am cho Đại Điên, cúng Sư
hai cái y, từ biệt rằng:
- Dũ tôi sắp xa Thầy, xin được nghe một lời
sau cùng!
Đại Điên nói:
- Ta nghe, người dễ tin người tất cũng dễ thay đổi,
người dễ khen người tất cũng dễ chê họ. Ông nghe ta nói tin ngay như
vậy, biết đâu sau này nghe người khác nói, lại cho ta sai cũng không
chừng!
Dũ biết mình không thể nghe được gì thêm bèn cáo từ Sư đi Viên Châu.
Thượng thư Mạnh Giản biết Dũ có giao du với Đại Điên, nên gởi thư chúc
mừng vì Dũ đã tin Phật. Trong thư trả lời Mạnh Giản, Hàn Dũ có nhắc đến
Đại Điên. Dũ viết: “Đại Điên là người thông tuệ, tinh thông đạo lý, tài
năng vượt xa người thường, sống vui trong đạo, chẳng bị sự vật động tâm.
Tuy tôi không hiểu hết đạo vị sâu xa trong lời ông ấy, nhưng lòng mình
đã không còn vướng mắc, nhân đó tôi thường lui tới thăm hỏi, đàm đạo”.
* * *
Đại Điên họ Dương, húy Bảo Thông, quê ở Triều Dương, tham học với Nam
Nhạc Thạch Đầu. Một hôm Thạch Đầu hỏi:
- Cái gì là Thiền?
Sư đáp:
- Nhướng mày chớp mắt.
- Bỏ nhướng mày chớp mắt, ông
đem ban lai diện mục trình ta xem!
- Xin Hòa thượng bỏ nhướng mày
chớp mắt mà xem con!
- Ta bỏ rồi.
- Con cũng đã trình Hòa thượng
rồi!
- Ông đem trình ta xong, còn tâm thì thế nào?
- Chẳng khác
Hòa thượng!
- Chẳng liên can đến việc của ông!
- Vốn không vật.
-
Ông cũng không vật.
- Không vật tức là vật thật.
- Vật thật thì
không nắm bắt được, tâm ông hiện lượng cũng như vậy phải gắng mà giữ
gìn.
Sau, Sư qua trụ ở Linh Sơn, Triều Dương. Sư dạy chúng:
- Phàm
người học đạo phải biết bản tâm của chính mình. Phần đông người học thời
nay chỉ nhận nhướng mày chớp mắt, một nói một nín, liền nhận ấn khả cho
là tâm yếu, kỳ thật chưa thấu tỏ. Nay ta chỉ rõ cho các ông thấy, mỗi
người phải nghe kỹ, nhận lãnh: “Hễ trừ bỏ tất cả vọng động, tưởng niệm,
hiện lượng, đó chính là chân tâm của các ông. Tâm này hoàn toàn không
dính dáng với trần cảnh cũng như trong lúc vắng lặng. Ngay tâm là Phật
không đợi tu luyên. Vì sao? Vì ứng cơ tùy chiếu, lặng lẽ tự dùng, tột
cùng chỗ dùng ấy trọn không nắm bắt được, gọi diệu dụng ấy chính là bản
tâm, cần phải giữ gìn chớ có xem thường”.
Thị lang Hàn Dũ từng hỏi Sư:
- Thế nào là đạo?
Sư lăng thinh. Lúc ấy Tam Bình làm thị giả đứng hầu, bèn gõ giường
thiền ba cái. Sư hỏi:
- Làm gì?
Bình đáp:
- Trước lấy định lay, sau dùng trí nhổ.
Dũ mừng nói:
- Môn phong của Hòa thượng cao ngất, Dũ nhờ thị giả
mà có lối vào.
Nói xong, Dũ lạy tạ ra đi.
Sư nối pháp Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên, Hy Thiên nối pháp Thanh
Nguyên Hành Tư, Hành Tư nối pháp Lục Tổ Đại Giám. Về sau, không ai biết
Sư thị tịch vào lúc nào, ở đâu.
(Trích dịch Phật Tổ lịch đại thông tải 15)
THÍCH
ĐỒNG NGỘ dịch