Nói đến pháp phục của Phật giáo, chúng ta thường đề
cập đến pháp phục của người xuất gia, bao gồm pháp phục nghi lễ và pháp
phục thường nhật. Pháp phục Phật giáo được xem là hình thức thể hiện
thân giáo, đó là pháp tướng bên ngoài của người xuất gia nên các chế tài
trong luật nghi quy định rất rõ về các hình thức của pháp phục. Tuy
nhiên, Phật giáo Việt Nam bao gồm nhiều hệ phái, trong đó chủ yếu là hệ
phái Bắc truyền (Bắc tông). Kế đến làn Nam truyền (Nam tông) và Khất sĩ.
Do đó tính đặc trưng về pháp phục của từng hệ phái có nhiều điểm khác
nhau về hình thức cũng như màu sắc, dẫn đến pháp phục Phật giáo Việt Nam
cũng rất phong phú và đa dạng. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng
tôi đã gặp gỡ và trao đổi với ba vị giáo phẩm thuộc ba hệ phái Bắc tông,
Nam tông và Khất sĩ nhằm tìm hiểu rõ hơn về pháp phục cũng như sự thống
nhất trong pháp phục nghi lễ của các hệ phái Phật giáo Việt Nam.
HT.Thích Trí Tâm, Trưởng ban Nghi lễ T.Ư GHPGVN
Pháp phục Phật giáo Bắc tông
Trong Luật Nghi ghi rằng: “Phật chế ba pháp y
là áo mặc duy nhất của Tăng đồ khi thọ giới và cũng để làm trang phục
hoạt dụng thường ngày như hành lễ, thuyết pháp thọ trai, khất thực…, vì
đó là y phước điền, y giải thoát trong giới đức tinh nghiêm biểu hiện sự
trang sức, là lễ phục đẹp nhất của người tu sĩ Phật giáo” (Thích Thiện
Siêu, 2002: 184). Tuy nhiên, khi truyền sang Trung Hoa, Phật giáo đã có
nhiều biến đổi bởi Phật giáo Bắc truyền (Phật giáo Đại thừa) mang tư
tưởng cách tân, nhập thế, đi sâu hòa nhập vào xã hội. Vào đời nhà Đường,
Phật giáo phát triển ngày càng mạnh mẽ dẫn đến những cải biến quan
trọng về lễ phục. Lúc này, ngoài pháp phục còn xuất hiện mão, hia trong
lễ phục nhằm trang trọng hóa tướng mạo của người sử dụng khi hành lễ,
thuyết pháp… Trên dòng chảy Phật giáo Trung Hoa xuống phía Nam đã để lại
Việt Nam dấu ấn không chỉ trong lễ phục, mà còn cả một dấu tích văn hóa
trong tiếp thu chọn lọc. Từ đó, lễ phục Phật giáo Bắc tông được cải hóa
theo từng vùng miền, phong tục khác nhau, và khi đến Việt Nam lại được
cải hóa thêm một lần nữa. Cho đến nay, chưa có tài liệu nào miêu tả
chính xác về các loại lễ phục của Phật giáo Bắc tông. Nếu có đề cập cũng
chỉ ở khía cạnh tượng trưng, như sách Bửu đỉnh hằng trì bí yếu chỉ toàn chương đời
nhà Trần, có đề cập đến mũ Phật quang, nhưng chỉ điểm qua chứ không có
hình vẽ hay mô tả gì. Toàn bộ y, mão đều là sự truyền thừa, chúng đệ tử y
cứ phụng hành theo những gì chư Tổ để lại mà sử dụng và phát triển.
Pháp phục của Phật giáo Bắc tông Việt Nam hiện nay
gồm: Pháp phục thường nhật và pháp phục nghi lễ. Pháp phục thường nhật
chia làm hai loại: thường phục trong chùa và thường phục đi ra ngoài
hoặc tiếp khách. Theo truyền thống, y phục mặc trong chùa chủ yếu là áo
vạt hò và quần dài. Đây là kiểu áo mặc thường nhật của các tu sĩ thuộc
hệ phái Bắc tông. Màu sắc chủ yếu là màu lam, nâu, vàng. Người mới xuất
gia (chú điệu, Sa di) thì thường mặc bộ đồ vạt hò màu nâu hoặc lam. Khi
ra đường thì mặc áo dài Nhật bình, màu lam dành cho chư Ni, màu nâu dành
cho chư Tăng. Đối với những vị thọ đại giới, ngoài chiếc áo Nhật bình
dài mặc khi ra đường, có thể mặc thêm loại áo tràng dài (còn gọi là
thông y) khi ra đường hoặc tiếp khách. Về cơ bản thì màu sắc của áo
tràng (Thông y) chỉ có hai màu. Lam dành cho chư Ni và màu nâu dành cho
chư Tăng. Ngày nay, để tiện việc giao tiếp, hoạt động các công tác Phật
sự…, chư Tăng mặc áo tràng màu vàng. Màu áo tràng này chỉ xuất hiện cách
đây vài năm, nhất là trong giai đoạn thời kỳ hội nhập.
Pháp phục nghi lễ còn gọi là lễ phục, là những loại
áo mặc bên ngoài khi thực hiện nghi lễ Phật giáo. Loại pháp phục này
được quan tâm và chú trọng nhiều nhất, được chư Tăng, Ni Phật giáo Bắc
tông gìn giữ đến ngày nay gồm ba y: Ngũ y, Thất y và Đại y, đều màu vàng
sậm (màu phấn tảo). Đặc biệt, khác với các tông phái Phật giáo khác,
Phật giáo Bắc tông ngoài ba y là lễ phục căn bản; mặc bên trong y còn có
áo tràng màu vàng dành cho chư Tăng và màu lam cho chư Ni, gọi là “áo
hậu”. Áo có hình thức giống áo tràng dài nhưng cổ tay áo rộng.
Ba y trên là những pháp phục của Tỳ kheo, nên những vị Sa di không
được sử dụng khi chưa được thọ giới Cụ túc. Cho nên bên cạnh ba y của
Tỳ kheo, còn có y của những vị Sa di, Sa di Ni và Thức xoa ma na, được
gọi là y “Mạn điều”, “Man y” hay là “Vô tướng y” (pháp y
không điều), không có những ô ruộng phước trên y mà chỉ là một tấm vải
may lại thành. Tuy nhiên, Sa di cũng được chia thành ba bậc: Một là khu ô
Sa di (Sa di đuổi qua), chỉ những em nhỏ xuất gia, chưa được mặc pháp
y. Hai là hình đồng Sa di (Sa di chưa thọ thập giới) nên chưa được đắp y Mạn điều. Ba
là Trì pháp Sa di (đã thọ thập giới) được đắp y Mạn điều, trở thành
hàng ngũ dự bị trong đời sống Tỳ kheo chứ chưa phải là Tăng chính thức.
Khi đắp y Mạn điều, phải quán chiếu bài kệ:“Đại tai giải thoát phục/ Vô tướng phước điền y/ Phi phụng như giới hạnh/ Quảng độ chư chúng sanh”.
1. Ngũ y hay còn gọi là Y ngũ điều, tiếng Phạn gọi là An đà hội, Hán dịch là Trung túc y. Ngũ điều y cũng được gọi là y bậc hạ, bởi là y thấp nhất trong ba y của hàng tăng sĩ. Y còn có tên là Tạp tác y, tức là mặc y này để làm các công việc nặng nhọc trong chùa hay đi ra đường, phản ánh chức năng sử dụng của y. Ngoài ra, Ngũ điều y còn có tên là Nhẫn nhục y,
có nghĩa là trau giồi tính nhẫn nhục của thân, ngữ, ý phát triển, khiến
hàng phục được sân tâm, tham tâm, si tâm. Ngũ y được ghép lại từ 10 tấm
vải với 5 đường dọc dài tượng trưng cho 5 điều. Trên mỗi điều, được
chia thành hai ô: một ô ngắn và một ô dài, trong đó, ô dài tiêu biểu cho
chất thánh, ô ngắn biểu thị chất phàm, nên người đắp y này Thánh nhiều
mà phàm ít. Y này có tác dụng loại trừ được tham dục của tâm thức, làm
cho thân được luôn thanh tịnh, nên đắp y này, làm cho ba nghiệp sát,
đạo, dâm không xảy ra, ngăn ngừa được sự vọng động của tâm và ý. Khi đắp
y, phải quán chiếu bài kệ:“Thiện tai giải thoát phục/ Vô thượng phước điền y/ Ngã kim đảnh đới thọ/ Thế thế bất xả ly/ Án tất đà da sa ha”.
2. Thất y còn gọi Y thất điều, tiếng Phạn gọi là Uất đa la tăng, Hán dịch là Thượng trước y. Thất y còn được gọi là Nhập chúng y với
công năng là đắp y này để lạy Phật, để sám hối các tội lỗi, để tụng
kinh, ngồi thiền, thọ trai, nghe kinh, làm lễ Tự tứ, làm lễ Bố tát. Y
này có 7 điều gồm 21 tấm ghép lại, trong mỗi điều được chia làm ba, với
hai ô dài và một ô ngắn. Khi đắp y, phải quán niệm bài kệ:“Thiện tai giải thoát phục/ Vô thượng phước điền y/ Ngã kim đảnh đới thọ/ Thế thế thường đắc phi/ Án độ ba độ ba sa ha”.
3. Đại y tiếng Phạn gọi là Tăng già lê, Hán dịch là Hiệp. Hiệp y có
nghĩa là cắt rọc từng miếng rồi hợp lại may thành y. Trùng y là may
chồng nhiều lớp vải bị cắt ấy lên nhau. Đại y cũng được dịch là Tạp toái y. Tạp toái vì số điều của nó rất nhiều: từ 9 – 25 điều. Theo Luật tạng quy định, đắp Đại y vào ba trường hợp sau: vào cung vua, thăng tòa thuyết pháp và đi khất thực.
Đại y gồm có 3 loại và 9 phẩm bậc: Bậc hạ có 3 y và mỗi điều của nó được chia làm ba với hai ô dài và một ô ngắn: Y hạ hạ: 9 điều, gồm 27 tấm ghép lại. Y hạ trung: 11 điều, gồm 33 tấm vải ghép lại. Y hạ thượng: 13 điều, gồm 39 tấm vải ghép lại. Bậc trung có 3 y và mỗi điều của y được chia làm bốn với ba ô dài và một ô ngắn:Y trung hạ: 15 điều, gồm 60 tấm vải ghép lại. Y trung trung:17 điều, gồm 68 tấm vải ghép lại. Y trung thượng:19 điều, gồm 76 tấm vải ghép lại. Bậc thượng có 3 y và mỗi điều của y được chia làm năm với bốn ô dài và một ô ngắn: Y thượng hạ: 21 điều, gồm 105 tấm vải ghép lại. Y thượng trung: 23 điều, gồm 115 tấm vải ghép lại. Y thượng thượng: 25
điều, gồm 125 tấm vải ghép lại. Đặc biệt, y thượng thượng có thể là màu
đỏ còn gọi là “Tử y”. Người sử dụng y thượng thượng phải là những bậc
cao tăng (tuổi tác, đức hạnh, phước trí). Y này thường chỉ được sử dụng
trong những dịp đại lễ Phật giáo nên rất ít phổ biến trong nghi lễ thông
thường. Riêng Tỳ kheo Ni cũng sử dụng ba y giống như Tỳ kheo
Tăng, nhưng khi sử dụng Đại y thì hầu như chỉ sử dụng đến Thập ngũ điều y
trở xuống và đó cũng là một sự tôn trọng của hàng Ni chúng đối với chư
Tăng. Khi đắp Đại y, phải quán chiếu bài kệ:“Thiện tai giải thoát phục/ Vô thượng phước điền y/ Phụng trì như lai mạng/ Quảng độ chư quần mê/ Án ma ha ca bà ba tra tất đế sa ha”.
Sự phân chia ô dài, ngắn trên một điều y có ý nghĩa
là nhiều ô dài biểu hiện sự ngày càng tăng trưởng chất Thánh; còn ô ngắn
thể hiện cái tính phàm phu chúng sanh đang ngày càng ít. Trong Giới Đàn Kinh chép:“Người
xuất gia đắp Đại y với ý nghĩa là dứt tâm si của ý nghiệp. Do đó, khi
đắp ba y: Ngũ y, Thất y, Đại y là biểu hiện sự dứt sạch hết thảy tâm
tham, tâm sân và tâm si”. Bên cạnh đó, đắp Đại y còn để chống đỡ với
thời tiết mùa Đông, vì chúng được may chồng nhiều lớp, bảo dưỡng thân
thể để làm Phật sự, hóa độ quần mê.
Trong lễ phục Phật giáo Bắc tông, ngoài ba y còn có
mão (mũ) được sử dụng trong quá trình thực hiện nghi lễ: Thuyết pháp,
đăng đàn truyền giới, chẩn tế bạt độ âm linh… các loại mão thông dụng
được tổ tổ tương truyền cho đến ngày nay:
1. Mão Hiệp Chưởng còn gọi là Liên hoa ấn. Mão
có hình dạng giống như hai bàn tay chắp lại hình búp sen mang ý nghĩa
biểu hiện trí tuệ và phước đức, nên còn có tên gọi khác là mũ phước và
trí. Trên mũ luôn có có sáu đường viền tượng trưng cho sáu Ba la mật: 3
đường bên phải là phước đức gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục; 3 đường
bên trái là trí tuệ gồm: Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ.
2. Mão Tỳ Lư, mão ghép bằng ba mảnh với sáu
hình giống cánh sen. Mỗi mặt đều có những đường viền chạy xung quanh xếp
theo sự uốn lượn của mũ. Mặt trước của mũ có ba chữ “Án Dạ Hồng” ở chính giữa, mặt sau may chữ Vạn, mang ý nghĩa “Vạn đức câu viên”,
tức là tất cả vô số đức lành đều quy tập về ở nơi mũ này. Mỗi hình cánh
sen trên mũ tượng trưng cho Lục độ bao gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn
nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ. Bên trên được kết đính bằng một
tấm vải hình tròn và chia làm ba vòng, tượng trưng cho Thanh văn, Duyên
giác và Bồ tát. Hình tròn nhỏ ngoài có màu đỏ, được chia làm 4 phần bằng
nhau, mỗi phần có 4 giọt nước tượng trưng cho Tứ niệm xứ và Tứ diệu đế.
Trên cùng là chóp mão màu đỏ hình một cái núm nhỏ được cột bằng 8 sợi
chỉ vàng biểu trưng Bát Chánh đạo.
3. Mão Quan Âm: Mão mang hình dáng và ý nghĩa giống mũ Hiệp Chưởng ở phần trên, phần dưới được kéo dài xuống đến nửa lưng. Mão Quan Âm thường được làm bằng gấm màu vàng hoặc màu đỏ sậm, trên đó có những chữ Thọ cách điệu trong những ô tròn (hay còn được gọi là đoàn thọ) hoặc là những chữ Phước.
Mũ Quan Âm mang ý nghĩa cứu khổ chúng sanh bằng phước, trí, được xem là
nguyện lực tầm thanh cứu khổ của Bồ tát Quan Thế Âm. Do đó người sử
dụng mão này phải là những bậc cao tăng (tuổi tác, đức hạnh, phước trí).
Mão thường chỉ được sử dụng trong những dịp đại lễ Phật giáo nên cũng
rất ít phổ biến trong nghi lễ thông thường khác.
Ngày nay, cũng trên hình tướng căn bản như vậy, nhưng
do xã hội đang ngày càng phát triển, ngành dệt may đã đạt đến trình độ
tinh xảo, sản xuất ra nhiều loại vải khác nhau v.v…, đã đẩy mạnh sự bất
đồng màu sắc trong lễ phục Phật giáo, làm cho lễ phục không còn một màu
chính thống, chất liệu vải cũng khác nhau. Chỉnh đốn và thống nhất về
màu sắc trong lễ phục Phật giáo Bắc tông là điều hết sức khó khăn đối
với các ban ngành chức năng của Giáo hội, cụ thể là Ban Tăng sự. Những
năm gần đây, Ban Tăng sự thuộc THPG TP.HCM ít nhiều đã kêu gọi Tăng Ni
thành phố mặc pháp phục cùng một màu sắc (màu vàng sậm), đây thật sự là
một việc làm đẹp mà Phật giáo các nơi phải nhìn nhận và noi theo. Tuy
nhiên, cho dù chưa thống nhất được màu sắc nhưng về cơ bản lễ phục không
xa rời ba y từ xưa đến nay của Phật giáo. Đó là Ngũ y, Thất y và Đại y.
HT.Thích Giác Giới, Phó ban Tăng sự T.Ư GHPGVN,
Thường trực Giáo phẩm hệ phái Khất sĩ Việt Nam
Pháp phục hệ phái Khất sĩ
Pháp phục và bình bát là tài sản thiêng liêng, quý
báu của người xuất gia. Vì nó là phương tiện giúp cho Tỳ kheo an ổn
trong sinh hoạt hàng ngày và phòng hộ thân tránh tham đắm dục lạc. Khi
còn tại thế, Đức Phật vẫn luôn nhắc nhở, khuyến khích các Tỳ kheo hãy
thường giữ bên mình 3 y và 1 bình bát. Ngài cũng tuyên bố rằng đó là
pháp phục truyền thống của ba đời chư Phật.
Pháp phục của Phật giáo Khất sĩ gần giống với pháp phục của Phật giáo Nam tông nhưng lại khác về màu sắc. Theo Chơn Lý Luật nghi Khất sĩ quy
định pháp phục của một vị Tỳ kheo gồm có 3 y: Y thượng bá nạp, y trung
và y hạ. Người sơ cơ xuất gia chỉ được mặc bộ đồ màu vàng (kiểu áo vạt
hò, quần dài). Riêng Sa di (đã thọ thập giới) được mặc ba y, nhưng y
thượng (y trùm ngoài) phải may trơn, không có điều.
1. Y thượng là loại y choàng bên ngoài có màu
vàng sậm, được may bởi nhiều mảnh vải nhỏ ghép lại với nhau. Y thượng có
chiều dài 2m70, chiều ngang 1m80, mặc vấn chừa vai và cánh tay phải.
Khi ra đường thì phải mặc trùm kín (gọi là y lum). Mỗi vị Tỳ kheo chỉ
được phép có một y thượng. Mỗi năm vào ngày 15-7 âm lịch mới được phép
đổi y. Y thượng thường được mặc khi lễ Phật, Bố tát, truyền giới…
2. Y trung là loại y mặc giữa thân người, gồm
một tấm vải nguyên màu vàng sậm, có kích thước chiều dài 2m, bề ngang
70cm, không may bìa (xếp lai), kết mỗi bên hông một nút quai thắt. Mỗi
vị chỉ có một y cũ và một y mới. Y trung của Ni lưu có bề dài 1m, bề
ngang 70cm, được may theo kiểu áo vạt hò có cánh tay, ống tay, đính,
lai, bâu, nút vai thắt, phải có xương sống và vai vuông.
3. Y hạ là tấm vải nguyên, có bề dài 2m, bề
ngang 1m may dính lại, thành ra vuông vức 1m. Bìa trên 10cm, bìa dưới
5cm, màu vàng sậm. Tăng mặc xếp từ hông đến nửa ống chân, Ni mặc dún rút
từ hông đến ngang mắt cá chân. Mỗi vị chỉ được phép có một y cũ và một y
mới.
Ngoài 3 y ra, vật thường được mang theo bên mình vị
Tỳ kheo đó là chiếc bình bát. Bình bát là đồ để đựng thức ăn, khi khất
thực và khi thọ trai. Thông thường bình bát được làm bằng đất, có vị làm
bằng nhôm, thau, hông bình bát tròn 6 tấc, miệng rộng, sơn đen, lăn sáp
bên ngoài, nắp đậy bằng nhôm trắng, nhẹ. Túi đựng bình bát bằng vải,
cùng với màu y. Túi bát tròn vừa cái bát, có nắp phủ lên, có quai 1 tấc
bề ngang, bề dài khi mang choàng vào vai trái thì miệng túi bát phải
ngang dây lưng chăn.
Về màu sắc pháp phục của hệ phái Phật giáo Khất sĩ ,
ba y phải cùng một màu (màu vàng sậm). Hiện nay, tất cả các tăng sĩ Phật
giáo Khất sĩ gần như mặc đồng bộ màu vàng sậm. Mỗi năm, khi đến mùa Tự
tứ, Phật tử dâng y đều phải thống nhất một màu.
ĐĐ.Thích Thiện Minh, Ủy viên HĐTS GHPGVN,
Thư ký Phật giáo Nam tông Việt Nam
Pháp phục hệ phái Phật giáo Nam tông
Mỗi tôn giáo đều có sắc phục riêng của mình, nhằm nói
lên tính thống nhất biểu tượng, có tổ chức. Có người nói chiếc áo không
làm nên tôn giáo hay thầy tu, nhưng nhờ chiếc áo mà phân biệt được tôn
giáo, thầy tu. Một tôn giáo sinh hoạt tốt phải có tổ chức thành công
nhiều mặt, trong đó sắc phục cũng không thể nào thiếu. Đức Phật xuất
hiện ở Ấn Độ trong một bối cảnh đa tôn giáo, nhưng Ngài khéo sử dụng tôn
giáo có trước thời ngài và vận dụng trí tuệ, từ bi và sự giác ngộ của
Ngài để phát huy Phật giáo, nhằm mục đích làm lợi ích cho chư thiên và
loài người. Trong sự phát huy Phật giáo, Đức Phật đã kiện toàn rất nhiều
lãnh vực cho phù hợp với Tăng đoàn và Giáo hội. Y phục và giới luật là
vấn đề khá lớn trong Tăng đoàn thời Đức Phật và những điều đó tới tận
nay vẫn còn tồn tại trên thế giới. Ở đây, chúng tôi xin đề cập vài nét
về y phục theo truyền thống Phật giáo Nam tông Việt Nam.
Về xuất xứ, Tương ưng bộ kinh và Luật tạng Pali kể
lại, một lần kia Thế Tôn và số đông Tỳ khưu đi hoằng pháp tới một cánh
đồng, Thế Tôn bảo Đại đức Ananda có thấy cánh đồng hay không? Đại đức
bảo có. Vậy Ananda hãy vẽ y phục của chư Tăng giống như cánh đồng vậy.
Thế là Ananda vâng lời Thế Tôn thực hiện. Vì ruộng lúa có lợi ích cho
con người, còn y phục, ẩn dụ phước điền của chư thiên và loài người.
Chiếc y ngày nay chúng ta mặc là chiếc y theo luật
tạng Pali quy định. Căn cứ theo Trưởng lão Ananda vâng lời Phật dạy vẽ
chiếc y giống như thửa ruộng. Ý nghĩa người mặc chiếc y này tượng trưng
cho phước điền của chư thiên và loài người. Thửa ruộng thì có nhiều bờ
đê, nên y phục trong luật tạng cũng quy định như sau: Y 5 điều, y 7
điều, y 9 điều, y 11 điều.
Ở Việt Nam, chư Tăng Nam tông Kinh và Nam tông Khmer
đa số mặc y 5 điều. Hình thức Tam y, bình bát vẫn còn gìn giữ nguyên
vẹn. Vị Tỳ khưu bên trong thì có Giới Định Tuệ, bên ngoài có tam y và
nhất bát. Điều cảm động, tam y nhất bát của Đức Phật và Tăng đoàn thời
xa xưa, ngày nay Phật giáo Nam tông Việt Nam vẫn còn gìn giữ nguyên vẹn,
không bị đồng hóa.
Pháp phục Phật giáo Nam tông không may thành quần, áo
như phái Bắc tông mà chỉ dùng vải vàng hoặc nâu quấn, vắt trên người
với các kiểu khác nhau. Có các hình thức sau đây:
Y nội: (còn gọi là y An đà hội) có tác dụng
như quần áo lót gồm hai miếng vải (giống như y trung của hệ phái Khất
sĩ). Miếng thứ nhất rộng 40cm, dài từ 1m – 1,5m vắt từ trước ngực qua
vai trái, qua lưng, chéo xuống sườn phải. Ở gần hai đầu vải có dải nhỏ
để buộc lại với nhau. Miếng thứ hai để nguyên khổ vải (từ 70cm – 90cm),
chiều dài 1,5m, quấn quanh bụng, đầu vải giắt vào mép vải cho chặt
(giống y hạ của Khất sĩ).
Y vai trái (còn gọi là y Uất đa la tăng). Y
vai trái có chiều dài 2m70, chiều ngang 1m80 mặc vấn chừa vai và cánh
tay phải. Khi ra đường, áo không được để hở vai và tay mà phải mặc trùm
cả thân theo trình tự như sau: Quàng tấm vải từ sau lưng ra phía trước,
hai mép vải luồn dưới hai nách, chụm hai mép vải ở trước ngực. Cho tay
trái vào trong giữ ở đoạn vải cách ngực khoảng 40cm tạo một khoảng trống
ở trước ngực. Y này thường mặc khi lễ Phật, kiết giới, Bố tát, thuyết
pháp…
Về màu sắc y phục chư Tăng, theo luật tạng Pali quy
định là màu hoại sắc, nói cụ thể hơn là màu da bò, màu vàng đậm và màu
măng cụt. Ở Việt Nam, ba màu vừa kể trên chư Tăng đều có mặc, nhưng chưa
thống nhất và đồng phục, như Sa di phải mặc màu nào, Tỳ khưu phải mặc
màu nào! Về phía Ni giới Nam tông Việt Nam, hiện quý vị Ni đang sử dụng 3
màu: màu trắng (ảnh hưởng Thái – Khmer), màu hồng và màu nâu (ảnh hưởng
Miến Điện). Tuy ba màu nhưng màu trắng lại chiếm đa số – pháp phục màu
trắng và cộng thêm khăn giới màu vàng.
Tóm lại, y phục là để tô điểm cho oai nghi tế hạnh của người xuất
gia. Đầu tròn, y phục và bình bát là thể hiện người xuất gia, tuy là
hình thức nhưng chính nó giúp cho chúng ta tu tâm dưỡng tánh, chuyển mê
khai ngộ. Người xuất gia chỉ có tam y, bình bát là tài sản. Tam y là để
che thân, bình bát dùng để khất thực và nuôi mạng sống qua ngày, để thực
hành đời sống phạm hạnh.