Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịch là hoa sen bắt đầu nở. Hoa
sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
Lịch sử kể rằng bà Ma Da, công chúa của một nước láng giềng, là phu nhân
của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, khi có thai, theo phong tục của xứ
mình phải trở về quê mẹ để sinh nở. Trên đường về, trong lúc dừng chân
nghỉ ngơi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu Ma Da đã hạ sinh Thái tử. Khi
Thái Tử sinh ra thì được chư Thiên đến nâng đón và tắm rửa. Sau đó, lúc
để xuống đất, Ngài đã bước bảy bước và dưới mỗi bước chân là một bông
sen nở. Thái Tử đưa tay lên trời mà nói: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã
độc tôn".
Ðó là bảy bước chân và lời nói đầu tiên của Ngài. Ai là người Phật tử
cũng biết lịch sử Phật Ðản Sanh cùng những lời giải thích khác nhau về ý
nghĩa bảy bước đi và lời tuyên thuyết đầu tiên này. Có nhiều người,
trong cũng như ngoài đạo Phật, thắc mắc không hiểu vì sao đạo Phật là
đạo phá ngã chấp mà đức Phật lại nói chỉ có Ngài là tôn quý nhất, không
những trong thiên hạ mà còn khắp các cõi trời và cõi người nữa. Có nhiều
vị lại cho rằng tất cả hàng trời người đều tôn xưng Ngài là "Ðấng Thế
Tôn" thì như thế câu nói trên cũng không phải sai và cũng không trái với
giáo lý giải thoát... vân, vân và vân vân. Thật ra trong kinh Phật, có
giải thích sự kiện này. Hôm nay nhân mùa Phật Ðản, người viết xin được
trình bầy thêm, y cứ vào kinh điển và ý nghĩa lời kinh, để làm sáng tỏ.
Về câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" dịch ra tiếng Việt
là: "Trên trời dưới trời, chỉ có ta là tôn quý". Câu này chỉ là một phần
câu, được ghi trong Kinh Sơ-Ðại Bản-Duyên trong bộ Kinh Trường A hàm
Quyển Một, một quyển kinh ngắn lược thuật nhân duyên giáng sanh, thành
đạo và giáo hóa của bảy đức Phật trong thế giới Ta Bà. Nguyên văn câu đó
được dịch như sau: "Trên trời dưới trời, duy ta là tôn quý, ta muốn cứu
độ chúng sanh khỏi vòng sinh già bệnh chết" [1][2]. Ðó là lời Ðức Phật
Thích Ca thuật lại khi Ðức Phật Tỳ Bà Thi, vị Phật thứ nhất bổ sanh
trong thế giới Ta Bà, ra đời đã nói lên lời như vậy, cũng giống như Ngài
(Phật Thích Ca) đã nói lên lời như vậy, và "ấy cũng là thông lệ của chư
Phật" [3]
Xét về mặt ngôn ngữ, câu trên cho thấy rằng chỉ có Ngài là bậc tôn
quý nhất trong loài người và trời, Ngài đã thoát khỏi vòng sanh tử luân
hồi và thị hiện cõi Ta Bà để cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng sinh tử
như Ngài. Tuy nhiên, nếu xét về mặt ý nghĩa của câu nói, chúng ta nên
hiểu chữ "Ta" trong câu "duy có ta là tôn quý" không phải là cái Ta của
Thái Tử Tất Ðạt Ða, một cái Ngã sinh diệt như cái Ngã của trăm ngàn
chúng sinh khác. Chữ Ta ở đây chính là Phật Tánh, là Chân Tâm, chẳng hề
sanh chẳng hề diệt, hoàn toàn thanh tịnh, là cái xa lìa tất cả những cái
gì gọi là đối đãi. Cái Ta đó hay cái Ngã đó chính là Chân Ngã, chính là
Pháp Thân thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và
thời gian. Trong kinh Ðại Bát Niết Bàn, phẩm Như Lai Tánh, đức Phật dạy:
"Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh tức
là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô
lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sinh chẳng nhận thấy được."
Cũng trong kinh này (Phẩm Tứ Tướng), Phật nói rõ "thân của Như Lai tức
là Pháp Thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hợp thành. Vì
tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ, vì tùy thuận cách sanh của
chúng sinh mà thị hiện làm đứa trẻ...".
Thật ra, Phật Tánh hay Chân Tâm hay Chân Ngã hay Pháp Thân là một cái
gì khó hiểu, khó nhận biết và khó trình bày vì thực chất của nó nằm
ngoài ngôn ngữ, ngoài thế giới tương đối hiện tượng. Chúng ta chỉ có
thể biết qua nhận thức, qua kinh điển rằng: Phật Tánh là một cái gì đó
chỉ có người chứng ngộ mới biết được, là một cái gì đó "không sanh không
diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng
phải do nhân làm ra, cũng chẳng phải không nhân, chẳng phải tự tác,
chẳng phải tác giả, chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải
có danh, chẳng phải không danh, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dài
ngắn, chẳng phải nhiếp trì trong ấm, giới, nhập...".
Khi nói về Phật Tánh, Ðức Phật thường dùng phương cách lìa tứ cú để
dạy chúng ta, có nghĩa là lìa khỏi bốn kiến chấp hay bốn phạm trù thế
gian tương đối: có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không.
Ngoài ra Ngài cũng dùng tỷ dụ hay phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý
nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể
dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư
tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên. Như
khi nói về Chân Tâm Phật Tánh, ngài kể trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn về
một cô gái nghèo, trong nhà có kho vàng ròng mà không biết, đến khi có
người khách khéo biết phương tiện chỉ cho chỗ cất giữ kho báu, cô trở
nên giầu có. Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Phật, cô gái nghèo
dụ cho vô lượng chúng sinh hiện bị các phiền não che đậy và kho vàng
ròng chỉ cho Phật Tánh Chân Tâm. Câu chuyện gã cùng tử hay viên ngọc
châu trong đáy túi áo trong Kinh Pháp Hoa cũng tương tự.
Như vậy, khi nói câu "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn" Ðức
Phật, lúc ấy là Thái Tử Tất Ðạt Ða, không nói về cá nhân ngài, về cái
thân tứ đại ngũ uẩn sinh diệt, mà nói về cái Tâm Chân Thật, cái Ngã Chân
Thật của chúng sinh. Chính cái Tâm đó mới là tôn quý, mới là tối thượng
và cái Tâm Chân Thật đó chính là Tâm Phật mà ai ai cũng có, bất luận
giầu nghèo sang hèn, bất luận mầu da ngôn ngữ, bất luận tôn giáo chính
kiến.
Bây giờ nói về bảy bước chân trên bảy đóa sen nở của Phật. Tại sao
không phải là ba bước, bốn hay năm bước. Có người giải thích Ngài bước
bảy bước là vì "Ngài là vị Phật thứ bảy", tiếp nối sáu vị Phật đi trước,
mà bắt đầu là Phật Tỳ Bà Thi. Có người khác giải thích bảy bước là tiêu
biểu cho bảy đại: địa đại (đất), thủy đại (nước), phong đại (gió), hỏa
đại (lửa), hư không đại, kiến đại, và thức đại; còn bảy đóa sen nở tượng
trưng cho sự thành Phật của bảy hàng để tử Phật gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, Sa di, Sa di ni, Thức Xoa ma na, Ưu bà tắc, và Ưu bà di,...vân vân
và vân vân.
Thật ra, con số bảy trong Phật giáo có rất nhiều tiêu biểu. Ngoài
thất đại còn có thất bồ đề phần tức bảy cấp bậc tiến đến giác ngộ, biểu
tượng cho trình tự tu chứng. Thêm vào đó, còn có thất giác chi, tức bảy
pháp của người Phật tử cần phải tu tập để tiến tới giải thoát (Niệm Giác
chi, Trạch Pháp Giác chi, Tinh Tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh An Giác
chi, Ðịnh Giác Chi, Xả Giác chi). Trong Kinh Thập Thượng thuộc bộ Kinh
Trường Bộ, Ðức Phật có nói tới mười thứ "bảy pháp" [4] tổng cộng là bảy
mươi pháp đã đưa Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác (bảy tài
sản,bảy giác chi,bảy thức trí,bảy tùy miên, bảy phi diệu pháp, bảy diệu
pháp, bảy thượng nhân pháp, bảy tưởng, bảy thù diệu sự, bảy lậu tận
lực).
Con số bảy mang nhiều biểu tượng như trên và bảy bước chân đầu tiên
của Phật cũng có thể mang hàm ý như thế, tuy nhiên, ai là người Phật tử
thấm nhuần đạo Pháp cũng đều hiểu rằng, không phải Phật chỉ bước có bảy
bước với bảy bông sen nở dưới chân mà là bước vô lượng bước trong khắp
cõi Ta Bà, trong khắp không gian vô tận và thời gian vô cùng. Không một
chỗ nào, không một sát na nào mà không có bước chân Phật, mà không có
hoa sen nở.
Tâm Diệu
Cước Chú:
(1) Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Kinh Trường A Hàm, Phật Học Viện
Quốc Tế Xuất Bản năm 1986, trang 8.
(2) Hòa Thương Thích Minh
Châu, trong Kinh Trường Bộ tập 1(Kinh Ðại Bổn), Viện Nghiên Cứu Phật Học
Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 453 dịch là: "Ta là bậc tối thượng ở
trên đời! Ta là bậc tối tôn ở trên đời. Ta là bậc cao nhất ở trên đời.
Nay là đời sống cuối cùng, không còn phải tái sanh ở đời này nữa".
(3) Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Kinh Trường A Hàm, Phật Học Viện Quốc
Tế Xuất Bản năm 1986, trang 8
(4) Hòa Thượng Thích Minh Châu, Kinh
Trường Bộ, Tập 2, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991,
trang 666-670