(Đọc tập phóng sự “Đi về phía An Lạc” của Nguyễn Trung Hiếu - Cty sách
Phương Nam và NXB Hội Nhà văn xuất bản 2011, vừa mới được tái bản)
Miền
Trung đang mùa mưa. Hiếm có nơi nào mưa như trút nước dai dẳng suốt
ngày đêm như ở đây. Thấm thoát tôi đã vào xứ này được 1 năm. Nhớ bữa mới
vào, cậu phóng viên bên tôi chầu chực để leo lên máy bay trực thăng của
Sư đoàn 372 đưa hàng đi cứu trợ tỉnh Quảng Bình bị bão lụt nhưng rồi
không có. Bí quá, tôi đành phôn cho Nguyễn Trung Hiếu (Phó Trưởng cơ
quan thường trú báo Lao Động tại miền Trung-Tây Nguyên) xem có cách gì
hay không. May quá, Hiếu nói, nhà báo Thanh Hải bên anh chuẩn bị đi bằng
ô tô cơ quan. Thế là tôi và cậu PV cùng cơ quan được “bám càng”, nhờ
vậy tin bài phản ánh khá đầy đủ. Nguyễn Trung Hiếu là vậy, dù mới chơi,
nhưng đối với bạn rất đỗi nhiệt tình, đôn hậu.
Bữa ở nhà sách Phương Nam (TP.Đà Nẵng)
giới thiệu cuốn sách “Đi về phía An Lạc” của anh, tôi vẫn cứ thắc mắc,
lạ nhỉ, có lẽ bạn đọc nếu nhớ thì chỉ biết tên Nguyễn Trung Hiếu qua
những bài điều tra chống tiêu cực, hay những phóng sự mang tính “đấm đá”
được đăng tải trên Lao Động. Thế mà anh thản nhiên in tập sách về nơi
“an lạc”, liệu như vậy có hợp tính cách? Anh khiêm nhường nói rằng:
“Tặng anh cuốn sách, còn dẫn lời một thiền sư đại để là cứ in, cứ làm mà
không nghĩ đến kết quả”. Hay thật, tôi cứ thiển cận nghĩ là những bài
phóng sự hết “đát” thì in làm chi? Chợt nhớ lời dặn của bè bạn Hà Nội:
“Này ông, vào đấy bớt thói bông lơn, châm chọc, dân trong đó không thích
đâu” nên im bặt.
Nhớ nhà văn Nguyễn Quang Sáng nói: “Anh em mình chỉ là cái thứ giang hồ
“vặt”, nhưng qua tập sánh này của Nguyễn Trung Hiếu mới thấy anh là
“giang hồ” thực thụ, “by air, by car”… rồi cả “phượt” nữa... Nhưng phục
nhất là vừa đi, vừa ghi chép và hết sức cần cù, tỉ mỉ, nên anh mới ra
được tập sách này, đọc rất cuốn hút.
Trong tập sách có bài giới thiệu của nhà
báo nổi tiếng Trần Trọng Thức, ông viết: “Ghi chép của anh là một bức
tranh sống động về sự phân tầng xã hội cũng như những khoảng cách giàu
nghèo, một đô thị xa hoa cận kề một nông thôn lầm than, và sâu sắc hơn
là tính cách an lạc chấp nhận lẽ vô thường trong cuộc sống của người dân
nơi đây. Phải chăng vì vậy mà tập phóng sự hơn 30 bài viết này có tên
“Đi về phía An Lạc”. Tôi thì lại nghĩ rằng, Nguyễn Trung Hiếu có cái sắc
sảo của người viết phóng sự, nhưng đến tuổi nào đó, bài viết cũng yên ả
hơn, điềm đạm hơn, đã lóe một thứ ánh sáng (nhiều người bảo đó là nhân
văn), ngoài ra đó là chút may mắn trên những chặng đường “giang hồ” mà
không phải ai cũng có cơ may được tiếp cận.
Nguyễn Trung Hiếu có may mắn 2 lần được
đến Ấn Độ, cũng là cái duyên của anh với mảnh đất này. Hai lần đến trong
2 năm, với hơn 200 ngày, văn hóa Phật giáo này vốn hết sức gần gũi với
vùng miền Trung nơi anh đang sinh sống. Vì thế mảnh đất lạ này, với
riêng anh lại hết sức gần gũi, gây nhiều cảm xúc mạnh mẽ, đôi khi trái
chiều. Phóng sự “Kỳ diệu India”, “Ba ngày một nước Ấn Độ”, “Thỉnh Kinh
Tây Trúc” đã ghi chép nên những xúc cảm này. Anh đã đến những vùng nghèo
khó, những ngôi nhà ổ chuột, trải qua những trận ngập lụt… hết sức lầm
than. Cách những vùng ngoại ô xơ xác đó không xa, tại trung tâm các
thành phố là những nhà cao tầng tráng lệ, những gia đình giàu có… sự
phân tầng hết sức rõ rệt.
Phóng sự “Đi về phía An Lạc” cũng là tên
chung của tập sách này. Đây có thể nói là phóng sự hay nhất, mà có thể
Hiếu cũng gửi gắm vào đó nhiều nhất. Trong thời gian học chương trình
đào tạo quốc tế do Chính phủ Ấn Độ tài trợ, anh đã kết thân với Ivan -
người Nga, sống và làm việc tại Kazachstan và Su Chit là người Ấn Độ. 3
chàng “ngự lâm” đã có chuyến đi đến thánh tích Phật giáo Vijaya và
Amaravati, mà Hiếu đã mơ ước một lần được đặt chân đến. Có một chi tiết
hết sức thú vị, đó là xuất hiện một nhân vật đen nhẻm, tóc dài tận thắt
lưng, bện chặt như hàng năm chưa tắm gội. Anh tưởng người đi xin ăn (anh
sống ở Đà Nẵng - thành phố giờ nói không với người ăn xin) nên xua tay
một cách quyết liệt, mà cũng để thoát đi mùi hôi của người hành khất.
Trong khi đó Su Chit lại tôn kính, anh ta giải thích: “Sau khi làm xong
những việc lớn trong đời, gồm lập gia đình, xây xong ngôi nhà, dựng vợ
gả chồng cho con cái, nhiều người đàn ông Ấn Độ sẽ từ bỏ tiện nghi của
đời sống hiện đại, dâng hiến đời mình cho đời sống tâm linh. Họ có thể
tìm vào rừng sâu, hay lên tận dãy Himalaya huyền bí, để chiêm nghiệm
cuộc sống; người theo hệ phái khất thực thì lang thang khắp nơi để chia
sẻ phước hạnh đến mọi người bằng cách ăn xin của bố thí”. Qua đó Hiếu đã
cũng đã “ngộ” ra được nhiều điều, đặc biệt sửa được cái tính cứng nhắc,
hơi cực đoan mà rất nhiều người ở vùng quê anh mắc phải. Trong phóng sự
này anh tỏ ra là người nghiên cứu kỹ, và hiểu khá rõ về văn hóa Phật
giáo, đặc biệt với lối viết cuốn hút, giàu chất văn. Trong những trang
viết này, dù rằng tại nơi đây sự phân biệt giàu nghèo khá sâu sắc, người
dân vẫn “an lạc” trong đời sống bần hàn, bời vì họ quan niệm: “Linh hồn
mới là chính, chứ không phải là thể xác; các kiếp sau mới là vô tận,
chứ kiếp này chỉ là phù du”.
“Phía sau là cao nguyên Boloven”, “Đến
địa đàng ở phía Đông”, “Du hý Trung Hoa lục tỉnh”…, những ghi chép ở
Lào, Thái Lan, Trung Quốc cũng rất thú vị. Đọc “Wat Phou - Ngôi đền di
sản” mới thấy Hiếu “giang hồ” thật. Đây là chuyến “phượt” bằng xe gắn
máy với bè bạn qua đường 18B, cửa khẩu Bờ Y (Kon Tum) sang Lào, mệt thì
ngả ra vệ đường uống bia Con cọp Lào, ăn cá nướng, ngắm hoàng hôn trên
sông Mê Kông, thế thì Hiếu sướng “nhất nước” rồi còn gì!
Nguyễn Trung Hiếu đã có 25 năm làm báo,
tập sách “Đi về phía An Lạc” của anh tuyển tập những ghi chép những
chuyến đi gần xa, có lúc đi bằng xe đò, cô đơn một mình qua Lào, sang
Ban Chieng (Thái Lan) khu di tích di chỉ khảo cổ, có màu gốm 5000 năm
không dễ gì ai cũng làm được. Anh bảo: “Chỉ để kỷ niệm tháng ngày rong
ruổi và nếu may mắn được người đọc chia sẻ trải nghiệm của mình thì âu
cũng là niềm vui”. Đấy là khiêm tốn đấy thôi, chứ ký sự của anh cũng gửi
gắm được nhiều trải nghiệm, lại có chất văn học, không phải ai viết
phóng sự cũng có được. Ngay cả những bài viết về yếu kém trong việc
trùng tu di tích như: “Đừng khoác “áo mới” cho di tích”, “Chùa Cầu Hội
An” được anh viết trước đây, vẫn còn nguyên tính “thời sự” đến tận hôm
nay (Chùa Cầu đang xuống cấp trầm trọng, giờ vẫn loay hoay chưa tìm ra
phương pháp tu bổ).
Có câu “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi
hay co”, Nguyễn Trung Hiếu luôn không bằng lòng với những gì đã có sẵn,
những gì được đóng khung, được “định nghĩa” tưởng như hoàn chỉnh. Phẩm
chất “cãi” cũng phải là thuộc tính của người viết, người sáng tác. Hãy
lắng nghe, cãi đúng thì tiếp thu, cãi sai cũng nên bao dung, độ lượng.
Hẹn với Nguyễn Trung Hiếu bữa nào đi rong ruổi một chuyến, nhưng xem ra
khó quá, bởi vì tôi cũng sắp chia tay với miền Trung. Dù đi đâu, vùng
đất này cho tôi rất nhiều kỷ niệm. Những người bạn, người anh đồng
nghiệp như Vĩnh Quyền, Trung Hiếu, Thanh Hải… đang công tác tại báo Lao
Động lại chuẩn bị xông pha trong mùa mưa bão đang đến, họ là những nhà
báo giỏi nghề mà tôi rất trân trọng. Với Hiếu, qua tập sách này, tôi
càng thấy rõ thêm cái chân dung kín đáo của anh, vì thế càng thêm quý
mến anh.
Quang Hân (PGVNN)