MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Tác giả
Lời nói đầu
Lời người dịch
Chương 1: Hiểu biết về vô thường
dẫn đến hạnh phúc
Chương 2: Ba mươi tám phước báu
Chương 3: Dứt sạch mọi khổ đau
Chương 4: Lỗi của người
Chương 5: Hai loại tài sản
Chương 6: Năm phương cách để đối
trị sân hận
Chương 7: Chúng ta phải tin vào
gì?
Chương 8: Bảy kiết sử
Chương 9: Bốn pháp cơ bản
Chương 10: Tâm từ bi
Chương 11: Đạt đườc tri kiến
Chương 12: Trí tuệ bát nhã
Tài Liệu Tham Khảo
Lời Giới Thiệu
“Hãy đến để thấy” của Ni
sư Aya Khema là một chuyên khảo về con đường hạnh phúc của Phật giáo. Tác phẩm
này thực chất là một tuyển tập gồm 12 bài nghiên cứu của tác giả được công bố
đây đó trong suốt quảng đường hành đạo, được xuất bản lần đầu vào năm 1994.
“Hãy đến để thấy” là một trong
năm đặc điểm của giáo pháp Phật. Bốn đặc điểm còn lại là thiết thực hiện tại,
siêu việt thời gian, được người trí tán dương và có khả năng đưa đến an lạc và
giải thoát. Được trưởng thành trong truyền thống Do Thái Giáo, sau hơn 30 năm tìm
kiếm, Ni sư Aya Khema đã chọn Phật giáo làm nơi nương tựa tâm linh.
Nếu các truyền thống tôn giáo
khác khích lệ và chủ trương “hãy đến để tin”, thông qua tác phẩm này, tác giả
mời gọi giới Phương tây “hãy đến để thấy” các giá trị đạo đức và tâm linh siêu
tuyệt của đạo Phật.
Với 12 chương, mỗi chương một
chuyên đề, tác phẩm này đã phát họa bức tranh tổng quát về giá trị của lời Phật
dạy. Bắt đầu về sự hiểu biết về vô thường, tác giả phân tích các khổ đau đều có
hệ quy chiếu vào cái tôi dưới ba hình thức: Đầy là tôi, đây là sở hữu của tôi
và đây là tự ngã của tôi. Bằng cái nhìn vô thường, các cái tôi đó chỉ có giá
trị mặc định về pháp lý và ngôn ngữ chứ không thực có trong thế giới hiện thực.
Nhận diện như thế sẽ giúp ta vượt qua các khổ đau do vô thường tan biến, ly
loạn, còn mất, đổi thay, lên xuống và biết bao biến đổi của cuộc đời.
Phủ định Thượng đế và đấng Tạo
vật sẽ kéo theo nhận thức hạnh phúc và khổ đau do tự do ý chí tạo ra. Các quan
niệm định mệnh và số phận an bài không có chỗ đứng. Thay vì chạy theo các hứa
hẹn, ăn các chiếc bánh vẻ, tác giả đã dành một chương giới thiệu 38 cách làm
phúc, theo đó, tương lai hạnh phúc và bình an tuỳ thuộc vào sự sáng suốt và các
hành động phước lành của ta. Nói cách khác, con người là kiến trúc sư của chính
mình, hạnh phúc và khổ đau do ta tạo, không đổ lỗi cho người.
Đề cập đến sự kết thúc khổ đau,
tác giả giới thiệu phương pháp truyền thống, bắt đầu bằng sự kết giao bạn lành,
sống cuộc đời trong sạch, tinh tấn không gián đoạn, làm chủ các giác quan và
giám sát các hành vi.
Bằng cách trích dẫn kinh điển
Pàli, tác giả cho thấy lỗi như là sự bất toàn của con người, có mặt theo công
thức: “thấy ở người thì dễ, thấy ở mình thì khó”. Khuynh hướng che dấu lỗi có
khả năng dẫn đến sự chạy tội, đồng loã tội, bao che tội, làm cho cuộc đời ngày
càng khốn đốn. Bươi móc lỗi của người là hành động tâm lý tiêu cực, vì thiếu
khả năng xây dựng, tạo nhiều hiềm khích và hận thù. Cảm thông những sở đoản và
sự bất toàn của người sẽ là phương thuốc trị liệu hữu hiệu về thói quen tìm
lỗi. Làm chủ tâm và các hành vi sẽ là phương thuốc trị liệu hữu hiệu cho việc
tìm lỗi và sửa lỗi của bản thân. Lỗi của người thì góp ý, lỗi của mình thay
đổi. Ai sống được như thế thì sẽ không còn bận tâm đến mọi chỉ trích hay phê
bình, nhờ đó thoát được mọi trách cứ, sợ hãi và hận thù.
Tác giả cũng phân tích tài sản
vật chất và tài sản tâm linh.
Nặng về tài sản vật chất có thể
dẫn đến tham ái, tranh chấp, xung đột và loại trừ. Trong khi phát triển các
“tài sản thánh”, tức các đức tính cao thượng sẽ có khả năng giúp con người trở
nên thanh cao. Kiến thức, sự rộng lượng, đạo đức, trí tuệ là các tài sản tinh
thần có khả năng trị liệu khổ đau và không bao giờ bị cạn kiệt như các nguồn
tài nguyên khác.
Sân hận thể hiện qua thân, khẩu,
ý, nếu nặng thì dẫn đến chiến tranh và chết chóc; vừa thì dẫn đến ấu đả và
thương tổn; nhẹ sẽ dẫn đến sự hiềm khích, bực dọc và bất đồng. Bị trói buộc vào
lòng sân, con người đánh mất hạnh phúc, đồng thời dựng lên các thành trì và
gián cách. Vun trồng hạt giống từ bi, thực tập tâm hỷ xả, làm chủ các hành
động… sẽ giúp người vượt qua được mọi hành động bạo lực: bạo lực chiến tranh,
bạo động khủng hoảng, bạo lực gia đình, bạo lực học đường và bạo lực xã hội.
Niềm tin theo Phật giáo không
phải là tin vào Thượng đế hay các Thần linh, lại càng không phải niềm tin nơi
số phận an bài. Dựa vào kinh Kalama, tác giả đã phân tích ứng dụng 10 đức tin
chân chính. Niềm tin có lý trí, theo đức Phật, không nên dựa một chiều vào kinh
điển, truyền thống, thầy giáo, lời đồn, khuynh hướng đương thời, sự diễn giải
logíc, sự ngụy biện khéo léo hay sự phù hợp với quan điểm cá nhân. Niềm tin
chân chính phải gắn kết với cái nhìn nhân quả, đạo đức cuộc sống, các năng lực
cá nhân và phương pháp đúng để thực hiện. Chỉ khi nào đối tượng của niềm tin có
thể dẫn đến sự giải phóng mọi tham lam, sân hận, si mê, khổ đau thì hãy nên ứng
dụng vì giá trị thiết thực của nó. Mọi lời đồn đãi và bơm phồng sự thật các giá
trị giới hạn của lĩnh vực tôn giáo cần được tránh xa, vì niềm tin vào chúng sẽ
dẫn đến sự thiển cận, thậm chí là các hậu quả tiêu cực.
Tác giả đã đề cập đến các trói
buộc tâm trong sinh tử và luân hồi bao gồm tham ái, sân hận, kiến chấp, ngã
mạn, cao ngạo, đố kỵ và chấp ngã. Đặc biệt tác giả giới thiệu bốn pháp căn bản
dẫn đến sự bình an đó là, chánh niệm, không hận thù, buông xả và thiền định.
Dựa vào kinh điển Pàli, tác giả
khẳng định tâm từ bi có khả năng chuyển hoá hận thù, mâu thuẫn, xung đột, bạo
lực và chiến tranh. Việc sử dụng ngôn ngữ từ ái, tôn trọng mạng sống của mọi
loài, rũ bỏ hờn giận và ác tâm, gắn tình thân thương đối với mọi người… có khả
năng mang lại hạnh phúc và hoà bình trên thế giới.
Tuệ giác, theo Phật giáo, là
kiến thức như thực về bản chất thế giới, con người, vạn vật. Thực tập Bát chánh
đạo có khả năng giúp cho hành giả từng bước đạt được các cảnh giới tâm cao
thượng: Hạnh phúc do chuyển hoá tính dục, hạnh phúc do đạt được định, hạnh phúc
do không bám chấp vào ỷ lại và hạnh phúc do buông xả mọi ý niệm. Hành giả
truyền thống Phật giáo sẽ không bận tâm nhiều vào các tầng thiền Vô sắc, như
Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Khi đạt được bốn tầng thiền truyền thống, hành giả có kinh nghiệm sẽ chuyển tâm
đến Tam minh: Thấy rõ quá khứ (Túc mệnh minh), thấy rõ tương lai (Thiên nhãn
minh) và kết thúc phiền não hiện tại (Lậu tận thông). Tại đây, hành giả trở
thành bậc thánh. Để đạt được thành quả cao tột này, không gì khác hơn là sống
và ứng dụng trí tuệ.
Phần cuối cùng của tác phẩm, tác
giả đã phân tích ngắn gọn giá trị của trí tuệ thông qua bài Bát nhã Tâm kinh. Giới thiệu Tâm kinh đối với thế giới Phật giáo Nam
tông là việc làm có ý nghĩa, đồng thời đối với độc giả phương Tây là việc làm
cần thiết để giúp họ “đến để thấy” sự siêu tuyệt của giáo pháp Phật, đặc biệt
là Đại thừa.
“Hãy đến để thấy” như một sự mời gọi tất cả chúng ta trở
thành nhân chứng của chánh pháp. Chánh pháp vẫn còn đây qua kinh điển, giá trị
của nó được trải nghiệm qua nhiều thế kỷ, vấn đề còn lại là mỗi người hãy dấn
thân trên hành trình sống theo lời Phật để thấy rõ giá trị của Chánh pháp là
thiết thực hiện tại, siêu việt thời gian và có khả năng dẫn đến an vui, giải thoát.
Giác
Ngộ, ngày 18-07-2010
Thích
Nhật Từ
Phó viện trưởng HVPGVN
tại TP. Hồ Chí Minh
Tác Giả
AYYA KHEMA sinh năm 1923 trong
một gia đình người Do Thái tại Bá Linh. Bà trốn khỏi Đức sang Tô Cách Lan (Scotland) năm
1938, cùng với 200 trẻ em khác. Sau đó được đoàn tụ với cha mẹ bà tại Trung
Hoa. Khi chiến tranh thứ hai bùng nổ, bà và gia đình bị đưa vào các trại giam
tù binh của Nhật. Sau chiến tranh, bà di cư sang Mỹ và lập gia đình tại đó. Vào
khoảng đầu những năm 1960, bà chu du nhiều nơi khắp châu Á, và sau 10 năm hành
thiền, bà bắt đầu dạy thiền và thuyết giảng về Phật giáo ở châu Âu, Bắc Mỹ và
Úc.
Ni Sư Ayya Khema đã góp công lớn
vào việc gầy dựng lại ni đoàn Phật giáo. Ni Sư thọ giới vào năm 1979, theo
truyền thống Nguyên thủy tại Sri
Lanka. Tại đó Ni Sư đã thiết lập Trung Tâm
Nữ Phật tử Quốc tế và Đảo Parappuduwa dành cho Ni chúng và nữ cư sĩ. Vào năm
1987 Ni Sư phối hợp tổ chức một hội thảo về Ni đoàn Phật giáo Quốc tế lần đầu
tiên, mà kết quả là ni đoàn Sakyadhita, một tổ chức nữ Phật giáo quốc tế được
thành hình.
Ni Sư đã viết hơn 20 đầu sách về
thiền và Phật giáo bằng tiếng Anh và Đức, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ni Sư là Be- ing Nobody, Going Nowhere (Việt
dịch: Vô Ngã Vô Ưu, Diệu Liên Lý Thu Linh), đã được giải thưởng Christmas
Humphreys (Christmas Humphreys Memorial Award). Các tác phẩm của Ni Sư đều thể
hiện được sự nhận thức sâu xa trong thực hành, sự lợi ích của thiền tập, và lời
kêu gọi đơn giản hóa cuộc sống hàng ngày của chúng ta, cũng như thanh tịnh hóa
thân tâm bằng cách ứng dụng những lời dạy của đức Phật vào cuộc sống.
Bên cạnh việc thành lập Wat
Buddha Dhamma (Ngôi Nhà Phật Pháp) ở Úc, một lâm tự viện theo truyền thống
Nguyên thủy, Ni Sư còn là Giám đốc đỡ đầu cho Buddha-Haus (Ngôi Nhà Phật) ở
Đức, nơi Ni Sư viên tịch vào năm 1997.
(ND: Bạn đọc có thể tìm hiểu
thêm về cuộc đời của Ni Sư Ayya Khema qua bản dịch Quà Tặng Cuộc Đời (I Give You My Life).
Lời Nói Đầu
Ni Sư
Ayya Khema sinh ra là người theo Do Thái giáo nhưng lại là người Phật tử khi từ
giã cõi đời. Gần cả cuộc đời bà du hành khắp nơi trên thế giới cùng với gia
đình, và chỉ trở về Đức vào những năm cuối đời. Một số chuyến phiêu lưu của bà
được kể lại trong quyển hồi ký thú vị, I
Give You My Life (Quà Tặng
Cuộc Đời).
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Ni Sư
là trên một phóng sự của đài truyền hình về một cộng đồng Phật giáo ở
Uttenbuehl, dưới chân của rặng núi Alps ở phía nam nước Đức. Phóng sự đó gây
nhiều xúc động cho tôi và vài năm sau đó tôi rất vui mừng được có thể giúp dịch
một trong những số sách của Bà.
Khoảng thời gian đó tôi đã
chuyển qua Anh quốc, và đang ở một giai đoạn trong cuộc đời khi tôi cảm thấy
rất khó khăn để hành thiền. Đối với tôi, quyển sách này giống như một khóa Phật
học cơ bản, dựa trên những bài giảng của Ni Sư Ayya Khema trong những buổi
thuyết pháp vào ngày thứ Tư hằng tuần tại Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus) ở
Uttenbuehl, và đã xuất bản lần đầu tiên năm 1994. Tôi rất thích các bài giảng
này vì chúng được dựa trên các kinh điển truyền thống của đức Phật. Ni Sư Ayya
Khema đọc vài kệ từ trong kinh Pháp Cú hay
một số kinh, luận ngắn khác, rồi giải thích, giảng rộng ra thêm. Ni Sư rất hoan
hỷ giảng giải kinh cho bất cứ ai thích tu thiền và tìm hiểu về Phật giáo. Với sự
hiểu biết, và kinh nghiệm trong
việc chuyên tu thiền định của bản thân, Ni Sư Ayya Khema thường giảng về thiền
một cách đầy nhiệt tình. Thật vậy, Ni Sư luôn nhấn mạnh đến việc làm thế nào để
áp dụng việc hành thiền trong đời sống hằng ngày.
Ni Sư Ayya Khema không hề e dè
khi trao đổi với các
‘đồng nghiệp’ Thiên Chúa giáo
của mình, so sánh các kinh nghiệm thiền định của Ni Sư với unio mystica (tạm dịch, một huyền bí) của những người như
Eckhart (Meister Eckhart), và Ni Sư cũng hướng dẫn các khóa tu thiền trong các
tu viện Thiên Chúa giáo.
Chính Dhammaloka, là người đầu
tiên đề nghị với nhà xuất bản Windhorse dịch quyển Komm Und Sieh Slebst (Come
And See For Yourself), xuất bản lần đầu năm 1994, sang tiếng Anh.
Jayachitta bắt đầu công việc dịch thuật, và tôi tiếp tục sau đó. Jinananda sau
đó biên tập lại bản dịch và Punyamati tỉ mỉ xem lại bản thảo lần cuối. Xin chân
thành cảm ơn mọi sự đóng góp của họ. Portia Howe và những người còn lại trong
nhóm ở nhà xuất bản Windhorse Publica- tions, cũng đóng góp nhiều công sức.
Nhiều người khác cũng đã góp tay bằng nhiều cách khác nhau, nhất là tăng đoàn
(Sanghamitta) ở Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus), Ulrike Har- ris, Asanga, Vassika,
Ratnaprabha, Shantiprabha, và người cộng sự của tôi, Martina.
Tôi xin hồi hướng công sức dịch
quyển sách này đến tất cả Phật tử ở Tây phương, và mong rằng tất cả mọi độc giả
đều đón nhận được một thoáng hào quang ấm áp chiếu soi từ đức Phật.
Michael Etzold
Oxford,
tháng 12, 2001
Lời Người Dịch
Dầu tâm
nguyện được có duyên lành để dịch tất cả các sách tiếng Anh của Ni Sư Ayya
Khema, nhưng để đạt được tâm nguyện đó là bao thử thách đối với tôi.
Trước hết là quỹ thời gian của
tôi ngày càng cạn kiệt, nhưng khó khăn nhất vẫn là sự hiểu biết rất giới hạn về
Phật pháp nói chung, và các kinh nghiệm thiền định nói riêng. Nhưng tôi cố gắng
không bỏ cuộc và tôi đã cầu nguyện đến sự gia hộ của chư Phật, của Ni Sư Ayya
Khema, cũng như sự rộng lượng của quý độc giả. Suy cho cùng, tôi là người được
nhiều nhất trong việc làm này: được thấm nhuần thêm những giáo lý cao siêu mà
gần gũi biết bao của đức Phật. Chỉ mong mọi người tha thứ cho sự mạo muội này.
Lần nầy khi quyết định chuyển
ngữ quyển Come and See for Yourself,
từ bản tiếng Anh, tôi đã may mắn được hai đạo hữu Chơn Minh Nguyễn Văn Phú và
Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường, hoan hỷ giúp dịch từ chương 1 đến chương 5 của
quyển sách, xem như đã giảm được nửa gánh nặng cho tôi.
Nhờ thế quyển sách dịch Come and See for Yourself (Hãy Đến Để Thấy) đã sớm được hoàn thành
để đến tay bạn đọc, những độc giả rất rộng lượng của chúng tôi, những người
không kể đến các sơ sót của chúng tôi, luôn khuyến khích chúng tôi tiếp tục
công việc dịch thuật, và cũng đầy lòng
ngưỡng mộ đối với Ni Sư Ayya Khema như chính bản thân chúng tôi.
Xin có đôi lời giới thiệu về hai
đạo hữu đồng dịch giả:
- Chơn Minh Nguyễn Văn Phú, sinh
quán tại Nha Trang, Khánh Hòa, là cựu học sinh trường Võ Tánh, Nha Trang; cựu
sinh viên Khóa 8, Cao Đẳng Thủy Lâm, Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp, Saigon; đã
tốt nghiệp tại Duke University, North Carolina, Hoa Kỳ. Hiện đang làm việc với
Michigan State University, ngành Thủy Lâm.
- Tịnh Nghiêm Nghiêm Xuân Cường,
nguyên quán tại Tây Mỗ, Hà Đông, hiện sinh sống và hành nghề Dược tại tiểu bang
Michigan, Hoa
Kỳ với gia đình. Ông cũng là tác giả của một tập thơ đạo và thiền với tựa đề Trở Về và một tuyển tập nhạc thiền Như Mây Trôi Đi.
Quyển Hãy Đến Để Thấy (Come and See for Yourself), gồm có 12
chương. Mỗi chương dựa trên một hay nhiều bản kinh về nhiều đề tài khác nhau.
Có những đề tài quen thuộc, dễ hiểu, nhưng cũng có những đề tài gây cho chúng
tôi nhiều bối rối. Thí dụ chương 11 nói về các tầng thiền định, thiền tuệ, và
chương 12 bàn về tính Không trong Kinh Bát Nhã. Chúng tôi đã hết sức cố gắng
trong khả năng giới hạn của mình để phần nào chuyển tải những lời giáo huấn của
Ni Sư Ayya Khema dựa trên Kinh điển của đức Phật. Tuy nhiên như chính Ni Sư đã
nói, trong chương 11: ‘... Thật rất khó
giải thích. Chỉ có người chứng nghiệm mới thật sự hiểu được”. Thật
vậy, với những điều được nói đến trong các chương này, chúng tôi, nếu có thể,
cũng chỉ dịch được lời chứ không được ý, hiểu được từ chứ không chuyển được
nghĩa câu. Ngoài ra, cũng xin lưu ý độc giả rằng, vì Ni Sư Ayya Khema tu theo
Nguyên Thủy, nên Ni Sư có cái nhìn riêng đối với một số kinh điển Đại thừa, thí
dụ như Bát Nhã Tâm Kinh.
Chắc chắn là quyển sách dịch này
không thể tránh được nhiều sai sót, mong quý tôn sư, các bậc uyên thâm, thiện
trí thức, chỉ dẫn cho, để lần tái bản sau được hoàn thiện hơn (xin liên lạc về ltl3107@yahoo.com).
Lần nữa xin chân thành cảm niệm
công đức của Ni Sư Ayya Khema đã để lại cho đời những bài thuyết pháp xúc tích
về giáo lý của đức Phật mà đối với chúng tôi là những bài Phật học hữu ích.
Với sự đồng ý của hai đạo hữu
đồng dịch giả, tôi xin được hồi hướng công đức dịch thuật này đến hương linh
của Mẹ tôi là cụ bà Lý Thị Lăng, Pháp danh Diệu Thọ, tạ thế ngày 27 tháng 3,
năm 2006.
Ngưỡng cầu Hồng Ân Tam Bảo hỗ
trợ cho chúng con luôn được gặp Phật pháp trong nhiều đời, nhiều kiếp về sau.
Diệu Liên Lý Thu Linh
Tháng
7, 2006