Mùa đông buốt giá đã qua đi, những
hàng cây trụi lá đang tươm mầm vươn sức sống dưới ánh nắng ấm của đầu
xuân; tuy nhiên không khí vẫn còn se lạnh nên tiểu Hương trùm chiếc áo
coat khi đi dọc theo con đường mòn của tu viện. Bầu trời trong xanh gợn
những cụm mây trắng bay đẹp làm sao, lòng tiểu Hương thanh thản và an
lạc lạ.
Hương đến cạnh bên gốc cây hồng dòn,
những nụ lá non xanh mướt đang chìa mầm. Đưa tay vuốt nhẹ chiếc lá mỏng
manh tươi thắm, gợi cho Hương nghĩ đến dòng sanh tử luân hồi đang hiện
hữu....,chiếc lá hôm nay có mặt vì đã có chiếc lá rơi rụng năm qua,
phân bón cho chiếc lá năm này và rồi cứ tiếp nối. Giáo lý của Đức Phật
bàng bạc trong cuộc sống nhiệm mầu, nhìn đâu đâu Hương cũng thấy đó là
Phật pháp. Từ khi hiểu đạo Phật, bây giờ Hương vững chãi đứng trước cuộc
đời như cây tùng trong mùa đông tuyết giá.
Nhớ hôm nào
Hương run rẩy đầm đìa nước mắt, như con chim sẻ nhỏ trước phong ba,
không biết trốn chạy núp vào đâu để sống còn với cuộc đời, trước biến cố
cha mẹ nuôi người Mỹ của Hương chết ở World Trade Center trong trận
khủng bố 11/9, không kịp một lời trăn trối và cả xác cũng không còn.
Hằng ngày Hương ôm con chó nhỏ cho ấm lòng, lang thang trong công viên
với tinh thần sụp đổ nửa khờ nửa dại, và Hương đã gặp chị Hân nơi đây.
Chị với dáng vẽ gầy gò nhưng lòng bao la vô tận ,chị đại diện cho Bồ Tát
Quan Âm dùng cành dương liễu rưới nước cam lồ hóa giải mọi khổ đau. Chị
thường ôm Hương vào lòng vỗ về, giảng giải cho Hương nghe vì sao chúng
ta đau khổ trên cuộc đời .Chị nói về luật nhân quả ,mỗi người sanh ra
trên đời đều có một lý lịch sẵn ,để trả vay nghiệp làm trong quá khứ, vì
vậy chúng ta đừng trách trời oán người ai đã đem khổ đau đến cho mình.
Chị dạy cho Hương làm những điều thiết thực hơn, như cúng dường, bố thí,
ấn tống kinh sách, phóng sanh, đến chùa cầu siêu hồi hướng công đức cho
cha mẹ. Chị giải thích cho Hương hiểu rõ về định luật vô thường của
cuộc đời : Tất cả từ sơn hà đại địa, người và mình đều là huyễn vọng
không thật có ; như bằng chứng cha mẹ Hương có đó rồi mất đó và đi về
đâu ? Không riêng cha mẹ Hương mà ai ai cũng phải chịu quy luật này .Chị
khuyên Hương hãy bình tỉnh lại ,còn bao người đau khổ hơn mình, ít ra
Hương còn lành lặn may mắn hơn những người tật nguyền, và có một gia tài
của cha mẹ Mỹ để lại, trong khi biết bao kẻ đói khổ hơn mình .
Từ đó Hương lấy lại tinh thần và quyết tâm học hỏi Phật pháp. Bây giờ
con người Hương đã thay đổi hoàn toàn như được sanh ra một lần thứ hai,
sau khi bóng tối vô minh đã lùi xa và ánh sáng trí huệ giúp Hương đủ
năng lực nhìn thẳng được bộ mặt thật cuộc đời ....tất cả đều chỉ là
huyễn vọng.
Con người vì nghiệp lực vô minh đã nhận cái
"bị thịt " này là chính mình khi vừa lọt lòng mẹ, nhưng thật ra "tánh
biết hằng hữu" chủ động mới chính là mình. Lục tổ Huệ Năng dạy rằng: "
Cho dù bi thịt của con người có đầy đủ những cơ quan và chức năng hoàn
hảo đến đâu, nếu thiếu đi tánh biết hằng hữu, thì cơ thể cũng không hoạt
động xài được ,vì bị thịt con người bấy giờ cũng chỉ là bị thịt vô tri
vô giác, chẳng khác nào gỗ đá ! ". Cũng giống như một cái Tivi có mọi
bộ phận đều hoàn chỉnh, nhưng thiếu điện thì cũng không sử dụng được.
Nhờ Đức Phật khai thị chúng sanh mới biết được đâu là tánh biết hằng
hữu, tức chân tâm Phật tánh của chúng ta. Và duy chỉ có chân tâm này bất
sanh bất diệt, còn ngoài ra tất cả trong vũ trụ này, cái gì có hình
tướng đều là huyễn vọng sinh diệt .
Chúng ta hãy nhìn
một tia sáng trắng đơn thuần khi đi qua một lăng kính, tia sáng trắng sẽ
cho ra một "quang phổ" với bảy màu sắc phân biệt ."Tánh biết hằng hữu"
cũng giống tợ như vậy, là khả năng biết và khả năng thấy đơn thuần, khi
tỏa ra trên sáu căn (mắt tai mủi lưởi thân ý) sẽ cho ra "tâm ý thức phân
biệt".Ở đây "tánh biết hằng hữu" ví như tia sáng trắng đơn thuần, lăng
kính ví như sáu căn trên thân thể chúng ta, và quang phổ ví như" tư
tưởng phân biệt".
Vì sáu căn nằm trong bị thịt sanh diệt
của chúng ta, nên " tư tưởng ý thức phân biệt" do sáu căn tạo ra cũng
bị sanh diệt ; nếu khi chúng ta lầm nhận tư tưởng này là mình ( tức nhận
cái bóng giả là thật ), lúc thân tứ đại bị tan rã sinh diệt ,chúng ta
hơ hãi tưởng chừng bị đánh mất mình và truy tìm một cái thân khác để gá
vào. Bấy giờ tùy theo phước nghiệp mà có thể gá đi vào trong sáu cỏi
sinh diệt ( trời, người, a tu la, ngạ quỷ, súc sanh ,địa ngục ) mà trầm
luân đau khổ. Ngược lại nếu chúng ta hiểu rõ mình chính là "tánh biết
hằng hữu" và luôn sống với cái bất sanh bất diệt thường hằng đó ,tâm
không sống chạy theo tư tưởng phân biệt chấp đó là mình ,tức không trôi
lăn chạy theo vật cảnh, thì chúng ta luôn trở về với chân tâm thường
hằng, đấy là giác ngộ giải thoát không bị trầm luân .
Tuy nhiên để thực hành có thể sống trọn với chân tâm, thấy được Phật
tánh của mình, thành tựu quả vị chánh đẳng chánh giác, không phải là
chuyện đơn giản dễ làm trong một vài đời mà có thể được, gột sạch mọi
phiền não lậu hoặc đã ăn sâu từ vô thỉ kiếp .Ngay cả bản thân Đức Phật
Thích Ca còn đã phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp mới gột rửa từ từ, tiến
mãi mà không lui sụt, mới phá tan được vô minh này .Cho đến giây phút
cuối dưới cội bồ đề Đức Phật mới thật sự chiến thắng được mọi phiền não
lậu hoặc, đạt đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn, thấy được vũ trụ như
trong lòng bàn tay .
Thế thì những con người phàm phu
của chúng ta chỉ là vô vọng, biết đến bao giờ mới đạt quả bồ đề???. Để
cứu vớt chúng sanh phàm phu, Phật Thích Ca ,trước hết giảng về tiểu
thừa sau đến đại thừa, không ngoài mục đích giới thiệu chỉ dạy cho chúng
sanh một pháp môn thành Phật thẳng tắt hơn. Một pháp môn mà chưa từng
có một chúng sanh nào trong thế gian này được biết, đó là thế giới Tây
phương Cực Lạc, nơi đây có Phật Adi Đà với 48 lời đại nguyện rộng lớn
lập ra, để cứu vớt chúng sanh trong khắp cả mười phương thế giới, đều
được vãng sanh về , với mục đích trước nhất thành bậc Bất Thối Chuyển
tức không còn lui sụt trong luân hồi. Nơi đây phàm thánh đều sống chung,
môi trường không có những điều xấu ác mà tiến tu. Nhờ vậy hành trình đi
đến quả Chánh Đẳng Chánh Giác dễ dàng hơn ,so với con đường của chính
thân Phật Thích Ca đã đi qua trong ba a tăng kỳ kiếp.
Từ
khi hiểu rõ được đạo mầu Hương cảm thấy tự tin và an lạc ; Hương đã đủ
can đảm và không còn chấp trước, để trở về Việt Nam tìm lại mẹ ruột, tha
thứ cho người mẹ đã bỏ rơi Hương trong viện mồ côi khi vừa chào đời.
Bởi vì mỗi lần nhìn mây trắng bay Hương nhớ lại lời chị Hân, tư tưởng
chúng ta không thật nên đừng cố chấp,chúng giống như những đám mây lang
thang trên nền trời xanh bát ngát vô định kia, có đó rồi mất đó, cụm
mây này tiếp nối cụm mây kia, thay đổi bao nhiêu hình thù ; thì những tư
tưởng bàng bạc nổi trôi trong chân tâm của chúng ta cũng như vậy, không
bao giờ chịu dừng nghỉ , trong khi thật sự tất cả đều là huyễn mộng
.Chỉ có chân tâm thường trụ của chúng ta là vô hình vô tướng, thường trụ
bất biến như hư không .Không một thứ gì có thể làm biến đổi được hư
không, dù mặt trời cũng không thể nhuộm sáng hay nhuộm tối, và bản thể
của nó cũng không chứa chấp một thứ gì như chân tâm.
Miên man suy nghĩ những điều này, tiểu Hương cảm thấy con đường mòn của
tu viện hôm nay với những tia nắng ấm như cùng Hương reo hò mở hội, hạnh
phúc là đây khi tâm tư Hương đang hiểu rõ được huyễn vọng của mọi trần
cảnh và hân hoan nhất hướng chuyên niệm danh hiệu Phật Adiđà ; với ý
thức rằng tánh thấy và tánh biết của Hương đang từng giây từng phút hiển
lộ thường hằng qua sáu căn, nhờ vậy mới có thể niệm phật, và biết mình
đang niệm phật ,vì tất cả các thức đều đang lưu xuất từ chân tâm .Trong
sung sướng Hương tìm chiếc điện thoại di động trong túi áo, bấm nhanh
nút gọi : "chi Hân ơi, bây giờ chị ở đâu, hãy đến đây niệm phật với tiểu
Hương, hôm nay trời trong mây trắng thật là đẹp quá, chị Hân ơi ."
Nhân Phúc (Theo chuahoangphap.com.vn)