Phật Học Online

Ba đặc tướng của đời sống

"Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Ði lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử sanh sanh tử, nẻo luân hồi
Trong Tam Giới xoay đi rồi chuyển lại!
Vô lượng kiếp khóc cha rồi khóc mẹ
Khóc vợ con, quyến thuộc kẻ thân yêu
Khóc cửa nhà, tài sản sớm tiêu điều!
Từ vô thỉ khóc than bao cảnh khổ
Những giọt lệ đắng cay người đã đổ
Còn nhiều hơn nước mặn khắp trùng dương!
Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Ði lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử sanh sanh tử, nẻo luân hồi
Trong Tam Giới kiếp này rồi kiếp khác!
Từ vô thỉ mỗi đời người bỏ xác
Khắp địa cầu phủ trắng đống xương khô!

..."


Ðức-Phật sanh ra là Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta hay Tất-Ðạt-Ða), một người như tất cả mọi người. Vào năm 35 tuổi, Ngài khước từ cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện ngọc và trở thành Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm). Sau sáu năm theo học với các vị đạo-sư trứ danh thời bấy giờ và thực hành các pháp khổ hạnh đến mức cùng cực mà không thâu đạt được kết quả mong muốn, Ðạo-sĩ Gotama tìm đến một nơi vắng vẻ tại Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), giữa khu rừng tươi tốt, bên cạnh một giòng sông ngoạn mục, rồi ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân mình Ngài tìm ra Ánh sáng Chân-Lý, trở thành Phật, bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó, trong 45 năm trường Ðức-Phật Gotama đi cùng khắp miền Bắc xứ Ấn-Ðộ, từ làng này đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, đi trên các con đường lớn và các nẻo nhỏ, để mang lại cho nhân loại bức thông điệp hòa bình và an tịnh, bủa rộng vòng hào quang từ-bi và trí tuệ vô-lượng vô-biên của Ngài bao trùm tất cả sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập được gọi là Phật-Giáo.

Như vậy, Phật-Giáo xuất phát từ nhân sinh, hướng về nhân sinh, nhằm phục vụ nhân sinh.

Ðức-Phật không đặt nền tảng giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực huyền bí siêu thế nào, cũng không dạy hàng tín đồ phải mong nhờ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, hay trông cậy nơi sự cứu rỗi nào từ trên ban xuống. Ngài dạy chẳng nên vội tin chắc một điều gì là chân lý chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách, hay vì điều ấy do một nhân vật quan trọng hoặc có uy quyền truyền dạy, chí đến lời của chính Ngài, cũng không nên vội vã tin càng mà phải luôn luôn dùng lý trí phân tách, quan sát, xét đoán tỷ mỷ, tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi mới quyết định tin cùng không. (xem kinh Kalãma Sutta, Anguttara Nikãya, Tăng Nhứt A Hàm, quyển I, trang 189)

Ngài dạy muốn tìm chân lý hãy hướng vào bên trong bản thân mình, bởi vì:

"Trong tấm thân nhỏ bé (nguyên văn: Tấm thân dài một sải) này, cùng với những tri giác và những tư tưởng, Như-Lai tuyên bố thế-gian, nguồn gốc của thế-gian, sự chấm dứt thế-gian và con đường dẫn đến chấm dứt thế-gian". (Kinh Rohitassa Sutta)

Danh từ Loka mà ở đây được phiên dịch là thế-gian hàm xúc ý nghĩa thế-gian đau khổ và đau khổ là kinh nghiệm của thế-gian bên trong ta.

Dukkha là danh từ Pãli mà Ðức-Phật đã dùng để chỉ cái thường được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn ta hãy tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ Dukkha. Trong quyển "The Buddha and His Teachings", Ðại-Ðức Nãrada giải thích:

"Ðứng về phương diện cảm giác Dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu đựng ("Du" là khó, "Kha" là chịu đựng). Nếu xem như một chân-lý trừu tượng, Dukkha hàm xúc ý nghĩa khinh miệt "Du", và trống rỗng "Kha". Thế-gian nằm trong sự đau khổ và như vậy là đáng khinh miệt, không đáng cho ta bám níu vào. Thế-gian là một ảo ảnh, không có thực chất. Do đó, thế-gian là rỗng không, hư vô. Vậy, Dukkha có nghĩa là một hư vô đáng khinh miệt, không đáng cho ta luyến ái và bám níu vào".

Trong bài thuyết trình vế Tứ-Diệu-Ðế (The Significance of The Four Noble Truths; Wheel Publication No. 123), đạo hữu cư sĩ Gunaratna giải thích danh từ Dukkha như sau:

"Danh từ Dukkha gồm hai thành phần: "Du " và "Kha". "Du" là một tiếp đầu ngữ hàm xúc ý nghĩa xấu, thấp kém, đê tiện, hèn hạ hay tầm thường. "Kha" là trống rỗng, hay nông cạn. Hai thành phần này hợp chung lại ám chỉ một cái gì xấu, không đáng được ưa thích, bởi vì nó trống rỗng, không có thực chất, huyền ảo, không làm thỏa mãn và thường được phiên dịch là "Ðau Khổ" hay "Khổ-Não". Tuy nhiên, hai chữ đau khổ và khổ-não chỉ bao hàm những ý niệm về một trạng thái khó chịu, tinh thần hay vật chất, mà không diễn đạt trạng thái rỗng không, huyền ảo và không thực của phạn ngữDukkha.

Dukkha không những phải khiêu gợi trong tâm ta những ý niệm không làm thỏa mãn của sự vật trên thế-gian, trạng thái không thực và dĩ nhiên, đưa đến tuyệt vọng, phiền muộn và bất ổn của tất cả những gì tạo nên khung cảnh sống của chúng ta. Dukkhabao gồm trạng thái chênh lệch, chao động và xáo trộn triền miên nối tiếp mà tất cả chúng sanh phải chịu vì không tìm được trong thế gian này sự bền vững, ổn định và thường còn. Tất cả sự vật bên trong và bên ngoài ta đều ở trong trạng thái luôn luôn sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, vô cùng tận, tạo nên cảnh "bất toại nguyện" và "bất ổn định" của toàn thể vũ trụ".

Trong bài Pháp đầu tiên, gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức-Phật mô tả cái khổ như sau:

"Hởi này các Tỳ-Khưu, bây giờ, đây là chân-lý cao thượng về sự khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, bám níu vào thân ngũ-uẩn là khổ".


Phạm Kim Khánh theo:budsas.org


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage