Dẫn Nhập
Tựa
quyển sách nầy được lấy ra từ một lời tiên tri của Padmasambhava, một
nhà thông thái Aán Độ, ở thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên, người đã du hành
đến Tây Tạng để thiết lập nền tảng Phật giáo.
Nguyên câu tiên tri như sau: “Chừng nào chim sắt bay, ngựa chạy trên
bánh xe, người Tây Tạng phải lang thang khắp cùng trái đất, lúc đó Phật
pháp sẽ được truyền đến đất nước của người da đỏ.” (‘Đất của người da
đỏ’, được xem là Tây phương, vì đối với người Á châu, da người Tây
phương đỏ hồng).
Mã
lực của các xe hơi, “con chim sắt” máy bay là một phần của đời sống
chúng ta hôm nay, và người dân Tây Tạng đúng là đã tản mác khắp nơi trên
thế giới. Các vị thầy Phật giáo và những lời dạy của Đức Phật (Pháp)
đã truyền lan từ những ngọn núi hùng vĩ của Tây Tạng, từ những tu viện
trong rừng ở Miến Điện, Thái Lan, Tích Lan, để hội nhập, hoà hợp, thăng
hoa ở phương Tây. Từ đó, mang đến cho các tôn giáo Tây phương, một
nguồn sinh lực, sức sống mới.
Lời Bạt
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Sau
khi đạt được đạo giải thoát giác ngộ, Đức Phật đã có nhiều năm truyền bá
Phật pháp ở miền bắc Aán độ. Đức Phật đã khuyên các hàng đệ tử không
nên chỉ nghe, hành theo lời dạy của Ngài dựa vào lòng tin, mà phải suy
tư về những lời dạy đó. Rồi khi thấy chúng hợp lý, đúng thì phải đem
những lời dạy đó ra thực hành. Vì thế, những lời dạy của Đức Phật được
truyền tụng vì chúng khiến người nghe thức tỉnh, đem lại lợi ích trong
cuộc sống của họ, do đó, họ lại truyền tụng cho người khác. Qua thời
gian Phật giáo được lan truyền khắp Á châu.
Tuy
nhiên những lời dạy quan trọng của Đức Phật không chỉ hạn chế ở một
không gian địa lý nào, vì những lời dạy đó có thể áp dụng cho tất cả
nhân loại. Những năm gần đây người Tây phương có nhiều cơ hội tiếp xúc
với những truyền thống sống động của Phật giáo. Họ trở nên quan tâm về
Phật giáo; có người còn trở thành Phật tử. Một trong những người đó là
Ni Sư Ayya Khema. Ở đây Ni Sư trình bày lại những bài giảng trong một
khóa tu thiền do Ni Sư hướng dẫn ở Canada, dựa vào những kinh nghiệm tu
chứng của chính bản thân. Những nỗ lực nầy thật đáng tán thán, tôi mong
rằng qua những lời giảng dạy nầy, tất cả chúng sanh sẽ được tâm bình
an.
Tenzin Gyatso
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Lời Người Dịch
Lần
nữa, nhờ sự gia hộ của Ni Sư Ayya Khema, tôi lại có đủ duyên lành để
hoàn tất việc chuyển ra Việt ngữ quyển When The Iron Eagle Flies của Ni
Sư.
Bắt
đầu dịch những trang đầu tiên của quyển When The Iron Eagle Flies (Khi
Nào Chim Sắt Bay) từ năm 2002, nhiều lúc tôi tưởng chừng phải bỏ cuộc,
vì sự yếu kém của mình. Nhưng tôi đã cầu nguyện đến giác linh của Ni
Sư. Tôi đã tự nguyện sẽ cố hết sức mình để hoàn tất, dầu quyển sách
dịch nầy chắc chắn sẽ có nhiều sai sót. Chỉ mong rằng nó sẽ là viên
gạch đầu cho những ai muốn sửa chữa, bổ sung để bản dịch được hoàn hảo
hơn.
Mong
bạn đọc đón nhận bản dịch nầy với lòng từ bi, hỷ xả. Xin hiểu rằng mọi
sai sót là do sự hiểu biết hạn hẹp của người dịch, hoàn toàn không liên
quan đến trí tuệ uyên thâm của Ni Sư Ayya Khema. Cầu xin Ni Sư lượng
thứ cho sự mạo muội nầy. Mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của các bậc
tôn sư, các dịch giả uyên bác, cũng như bạn đọc khắp nơi để quyển sách
được hoàn thiện hơn trong những lần in sau.
Xin tri ân sâu xa Ni Sư Ayya Khema đã để lại cho đời nhiều quyển sách về Phật giáo rất hữu ích.
Xin
chân thành cảm ơn NXB Wisdom Publications, MA USA, đã chấp nhận cho
chúng tôi được chuyển dịch và ấn tống quyển sách hữu ích nầy.
Nguyện đem công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh
Nguyện trọn thành Phật đạo.
Tháng 6, 2005
Diệu Liên-Lý Thu Linh
Lời Giới Thiệu
Trước khi bắt đầu, tôi muốn giải thích về nguồn gốc của các bài thuyết
pháp của Đức Phật. Ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt (parinibbàna),
kết tập đầu tiên của các vị A-la-hán (những vị đã đắc đạo) được thành
hình. Lúc đó các bài thuyết pháp của Đức Phật được phân loại và xếp đặt
lại một cách hệ thống. Khi còn tại thế, Đức Phật thường thuyết giảng
các đề tài tùy duyên, thường là để trả lời các câu hỏi. Lúc đó, các bài
thuyết giảng của các tôn giáo đều được truyền giảng bằng miệng.
Ở
lần kết tập nầy của các vị a-la-hán, tôn giả Ananda, người đã làm thị
giả cho Đức Phật trong hai mươi lăm năm đã tụng các kinh và Ngài Upali
đã truyền khẩu các giới luật cho tăng ni. Có khỏang 17,500 bài thuyết
pháp của Đức Phật đã được lưu truyền bằng hình thức đó. Khoảng một trăm
năm sau, các vị A-la-hán lại được kết tập lần nữa. Vì có nhiều ý kiến
rất khác nhau, đặc biệt là về các giới luật, nên đại chúng (của các tăng
và ni) đã có khuynh hướng chia rẽ. Vì thế việc cần hoàn chỉnh tất cả
các kinh luật của Đức Phật để có cơ bản dựa vào, là điều thiết yếu.
Hai
trăm năm mươi năm sau ngày Đức Phật diệt độ, một kết tập thứ ba của các
vị A-la-hán lại được thiết lập. Lúc đó các vị đại đệ tử của Đức Phật là
các ngài Ananda, Mục-Kiền-Liên và Xá-lợi-phất, mỗi vị đều có một đệ tử
còn sống. Dĩ nhiên, các vị nầy đều đã hơn trăm tuổi, nhưng sự có mặt
của các vị là để chứng minh cho các kinh điển được truyền thừa. Ở thời
điểm đó, các kinh điển, giới luật được viết bằng ký tự Sinhalese trong
Pali ngữ. Ngày nay chúng ta có thể đọc được tiếng Pali bằng ký tự La
mã.
Lúc
đó vua A Dục, vị đại vương Phật giáo của Aán độ, đã phái con, là thầy
Mahindra, đến Tích Lan để truyền bá Phật giáo. Vua Tích Lan hoan hỉ đón
nhận giáo lý mới mẻ nầy, nhiều hàng quý tộc cũng trở thành tỳ-kheo
(bhikkhus). Các vị tỳ-kheo đã đảm nhiệm trách vụ chuyển tàng kinh Pali
sang chữ viết. Tiếng Pali gọi các kinh điển nầy là Tipitaka (ti có
nghĩa là ba, và pitaka là giỏ). Tại sao gọi như thế cũng có lý do của
nó. Nguyên cảo của kinh được viết trên lá bối (lá cây cọ) bằng những
mũi dao găm nhọn như ngòi viết. Mực được tạo ra bằng những quả dâu được
chà lên khắp mặt lá, sau đó được lau nhẹ, chỉ để lại màu trên những chữ
đã được khắc sâu. Lá bối không đóng lại được thành sách, mà phải mang
trong những giỏ xách. Ba giỏ xách riêng biệt được xủ dụng: một cho Kinh
(suttas), một cho giới Luật (Vinaya) và một cho Luận (Abhidhamma). Kể
từ đó, các vị tỳ-kheo người Tích Lan đã sao chép lại các bản chính trên
lá bối cũng bằng cách trên, vì dần dần các lá cây bị khô nát. Việc làm
đó đã tạo thành truyền thống lâu đời cũng như là niềm tự hào của các
tỳ-kheo sống trong các tu viện xây quanh tảng đá nơi thầy Mahindra lần
đầu đến đây giảng pháp.
Kinh
điển luôn đi kèm với truyền khẩu; vì đọc sách không thể nào giống với
nghe giảng Pháp từ các bậc thầy. Kinh điển, do đó, được truyền khẩu từ
thời Đức Phật cho các vị Thầy rồi đến đệ tử, trải qua bao thăng trầm,
bao biến động, và vẫn còn tiếp tục như thế đến ngày nay.
Để
được lợi ích từ một buổi thuyết pháp, ta phải lắng nghe với cả tâm trí.
Trí tư duy; tâm tin tưởng dầu có thể chưa hoàn toàn hiểu hết lời
giảng. Nhưng tâm trí kết hợp như thế sẽ giúp ta dễ nắm bắt được những ý
nghĩa ở đằng sau lời giảng. Lời nói rất trừu tượng, có thể bị bóp
méo. Tâm chúng ta giống như các nhà ảo thuật, có khả năng biến hoá việc
nầy thành việc kia.
Giáo
lý của Đức Phật như một tấm bản đồ khổng lồ với bao nơi chốn và con
đường dẫn ta đi từ nơi nầy đến nơi kia. Đây là món quà đặc biệt của Đức
Phật, dành cho tất cả những ai cần đến nó. Tuy nhiên vì chưa đi hết
con đường, không ai có thể chắc rằng con đường còn ở phía trước đã được
vạch ra đúng hướng. Trong trường hợp đó chỉ có một cách giải quyết duy
nhất là rộng mở tâm trí mình để xem sự thật có được phơi bày ra không.
Tâm phải có đủ lòng tin để bước tới, nếu không các chấp kiến, những
quyết định đầy lý luận sẽ là vật cản đường.
Giáo
lý nầy, đã được thực chứng qua các thế kỷ, là một trong những báu vật
mà nhân loại sở hữu. Các lời dạy của bậc đạo sư có hiệu lực mạnh mẽ
trong việc chuyển đổi từ đau khổ (dukkha) đến hạnh phúc (sukkha). Qua
cửa ngỏ tâm trí, Đức Phật khuyên chúng ta phải học lẫn hành. Với trí
tuệ dẫn lối, sự thực hành thực sự đưa ta đến đích.
Bài
kinh các bạn sẽ nghe, gọi là kinh Upanita trích từ Samyutta Nikaya
(Tương Ưng Bộ Kinh - Connected Discourses), chỉ cho ta con đường đi từ
những phiền não, khổ đau hiện tại đến giải thoát. Chúng ta có thể làm
được điều đó trong khóa tu thiền bảy ngày nầy không? Đức Phật nói chúng
ta có thể làm được. Trong kinh Satipatthana Sutta (Tứ Niệm Xứ), về nền
tảng chánh niệm, Đức Phật đã nói rằng nếu hành giả thực hành chánh niệm
trong bảy năm, chắc chắn sẽ đạt được quả vị A-la-hán hay bất lai
(anagami). Đức Phật lại tiếp, “Mà nầy, không cần bảy năm, chỉ cần sáu,
năm, bốn, ba, hai hay chỉ một năm. Chỉ cần mười một tháng, mười, chín,
tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai hay chỉ một tháng. Nầy, chỉ cần bảy
ngày”. Dĩ nhiên, đó là nếu chúng ta có được sự chánh niệm tuyệt đối.
Có thể đạt được hoàn toàn giải thoát chỉ trong bảy ngày là điều khó có
được, nhưng để giảng về phương pháp thực hành trong khoảng thời gian đó
lại là điều hoàn toàn có thể thực hiện được.
Có
câu chuyện kể rằng Đức Phật trong một lần đi với các tăng chúng trong
rừng. Cầm một nắm lá trong tay, Ngài đã nói với các vị đệ tử, “Lá trong
rừng hay lá trong nắm tay ta nhiều hơn?” Các đệ tử Phật bèn thưa:
“Bạch Đức Thế Tôn, lá trong rừng phải là nhiều hơn lá trong tay Thế
tôn”. Đức Phật tiếp, “Đúng thế. Những điều ta giảng cho các ông, so
với những gì ta biết, cũng giống như nắm lá trong tay ta, nhưng thế
cũng quá đủ để đạt được giác ngộ giải thoát”.
Chúng ta có thể cảm nhận được tính chính xác của Tam Tạng kinh khi tên,
tước hiệu của các vị đệ tử có mặt lúc Đức Phật giảng Pháp đều được nhắc
đến. Địa danh nơi giảng pháp cũng thường được mô tả, và tên của các vị
đệ tử được lập đi lập lại nhiều lần đến nỗi ta cảm thấy rất thân thuộc
với họ. Nhiều bài kinh bắt dầu bằng chữ “Evam me suttam,” có nghĩa là
“Như tôi đã được nghe,” là lời mở đầu của ngài A Nan ở lần kết tập đầu
tiên của các vị A-la-hán. Tiếp đến Ngài Ananda cho biết ông đã nghe bài
giảng ở đâu, những ai cũng có mặt lúc đó. Ngài làm thế để chứng tỏ
tính chính xác của bài kinh được truyền lại; nếu có gì vướng mắc, các vị
đệ tử khác có thể được tham vấn để xác minh các lời của Ngài.
Chúng ta đầy lòng biết ơn và sung sướng biết bao được là những người có
mặt trên mặt đất nầy, được có cơ hội nghe Phật pháp. Giữa hơn năm tỉ
người có mặt trên trái đất nầy, đó đúng là kết quả của nghiệp lành chúng
ta đã gieo trồng. Lòng biết ơn và hạnh phúc sẽ khiến ta mở lòng đón
nhận Phật pháp. Chỉ có tri thức không, chưa đủ. Sự hành Thiền sẽ đem
đến cho ta những kinh nghiệm, mà lúc nào cũng đầy tình cảm, là ‘đặc tính
của trái tim”.
Đức
Phật đã là một vị thái tử, đã sống trong nhung lụa. Nhưng Ngài nhận
thấy rằng những xa hoa, những quyền lợi vật chất không đem đến hạnh phúc
cho Ngài. Điều đó cũng đúng trong cuộc sống của chúng ta hôm nay.
Chúng ta có thể cũng có bao quyền lợi, bao cao sang, nhưng hạnh phúc vẫn
không ở trong tầm tay. Đức Phật đã nghĩ rằng chính những xa hoa, vật
chất cản trở Ngài tìm đến sự thật. Ngài đã rời bỏ hoàng cung để sống
đời khổ hạnh trong sáu năm, nhưng điều đó cũng không giúp Ngài tìm được
chân lý. Sau khi đã tìm được con đường giác ngộ của riêng mình, Đức
Phật đã nói sự hưởng thụ thái quá hay sự khổ hạnh tột cùng đều không
mang lại kết quả, chỉ có trung đạo, tránh xa hai thái cực trên, là đem
lại kết quả.
Trung đạo luôn là con đường của sự đơn giản –đem lại những thứ ta cần,
và chỉ thế không có gì hơn. Trong các bài thuyết pháp của Đức Phật, ta
cũng nhận thấy sự giản đơn đó. Ít có các nghi lễ, không giáo điều,
không ngụy trang. Bài kinh tôi đã chọn cho khóa tu thiền nầy cũng mang
đầy đủ những yếu tố cần thiết cho con đường tâm linh. Cũng như trong
những điều dạy của Đức Phật, đó là một con đường chuyển hóa dần dần.
Bắt đầu bằng những kinh nghiệm đời thường của chúng ta, rồi dần hướng ta
đến giải thoát, đến sự tự do tuyệt đối.
Trích Khi nào chim sắt bay