Phật Học Online

Vũ trụ quan Phật giáo

Với huệ nhãn của Bậc toàn trí toàn giác, Đức Phật đã khẳng định rằng tâm là chủ nhân tạo tác ra vạn vật trong vũ trụ này. Điển hình nhất là trong kinh Hoa Nghiêm, lời dạy sâu sắc của Ngài đã nói lên tinh ba này “Nhất thiết duy tâm tạo”. Nghĩa là muôn vật, muôn loài, muôn việc trong trời đất này đều từ tâm mà sinh ra, từ tâm mà hiện hữu, từ tâm mà hoạt động và cũng từ tâm mà hoại diệt.

 

Theo Phật, con người được cấu tạo bởi năm phần gọi là ngũ ấm hay ngũ uẩn, gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Một là sắc ấm, tức thân vật chất hữu hạn của chúng ta. Mang thân người, tất yếu chúng ta phải đáp ứng những đòi hỏi tối thiểu của thân là cơm ăn, áo mặc, chỗ ở. Để giảm bớt sự lệ thuộc vào ăn, mặc, ở, Đức Phật dạy người tu thực hiện nếp sống tam thường bất túc, ăn ít, ngủ ít và mặc ít;  vì loại bỏ được một phần đòi hỏi của thân là đoạn được một phần phiền não trần lao nghiệp chướng và được giải thoát liền. Các vị Sa môn giải thoát, vì đã hạn chế đến mức tối đa nhu cầu vật chất; cho đến đắc được Thánh quả A la hán, điều tiết được sắc thân, nên hoàn toàn tự tại đối trước đói, khát, nóng, lạnh. Nghĩa là các ngài đã phá được sắc ấm, hay nói đúng hơn là chuyển đổi được sắc ấm thành Giới đức Pháp thân, thể hiện mẫu người đức hạnh không bị cuộc sống vật chất chi phối.

Phá được sắc ấm, kế tiếp cần phá bỏ thọ ấm. Qua sáu cửa ngõ của thân vật chất là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, chúng ta sẽ tiếp xúc với vật chất bên ngoài, tạo thành những cảm xúc chi phối chúng ta một cách mãnh liệt. Đơn giản như thấy nghe việc trái tai gai mắt, hoặc ăn những món không thích, v.v… cũng đủ làm cho tâm khởi bực bội, phiền muộn. Điều này được kinh diễn tả là sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo ra vô số khổ đau, tội lỗi. Để tâm được yên tĩnh, người tu thường nhập thất, sáu giác quan không tiếp xúc với thế giới bên ngoài và chỉ  đọc tụng kinh điển, sám hối, tham thiền, v.v… Nhờ an trú trong pháp Phật, không bị vật chất tác động, chuyển đổi được thọ ấm thành Định Pháp thân.

Ấm thứ ba là tưởng ấm, tức sự hoang tưởng cũng là một vấn đề cần khắc phục trên bước đường tu. Thật vậy, tâm trí con người thường nghĩ lăng xăng, tưởng tượng đủ thứ. Những ý nghĩ lộn xộn không ích lợi, hoặc những mơ ước viển vông về tương lai chưa đến hay tiếc nuối quá khứ đã qua, đều khiến cho người ta trở nên bất mãn, buồn rầu, khổ đau.

Trên bước đường thể nghiệm Phật pháp, chúng ta tập trung tâm vào bước đi, vào hơi thở, vào tiếng niệm Phật, vào giáo pháp… để tạo cho tâm định tĩnh, sẽ giúp chúng ta nhận thức sáng suốt mọi việc, chuyển đổi tưởng ấm thành Huệ Pháp thân.

Thứ tư là hành uẩn. “Hành” là hành động trong tâm, không phải hành động bên ngoài. Tuy thân ngồi yên, nhưng tâm trí chúng ta đang chạy nhảy cùng trời cuối đất, nghĩ ngợi, lo toan vô số việc. Hành uẩn sai sử chúng ta rời xa vị trí thực tế của mình và thúc đẩy chúng ta đi vào con đường nghiệp chướng, khổ đau. Ý thức sâu sắc tác hại của hành uẩn, chúng ta nỗ lực trụ tâm trong pháp Phật sẽ phá trừ được hành uẩn, hay chuyển đổi hành uẩn thành Pháp thân thứ tư là Giải thoát Pháp thân, thể hiện tướng an lành, giải thoát thật sự, khiến cho người trông thấy phát tâm Bồ đề.

Sau cùng là thức ấm. Thức là sự hiểu biết theo thế gian, tức thế gian trí. Phật dạy rằng đó là sự hiểu biết của phiền muộn, biết nhiều thì phiền não nhiều. Thật vậy, tất cả sự tiếp xúc của chúng ta trong cuộc sống từ vô số kiếp cho đến ngày nay, đã tạo thành vô số kinh nghiệm, vô số hiểu biết được cất giữ đầy đủ trong một cái kho rộng vô tận mà Duy thức học gọi là Tạng thức, hay A lại da thức. Tạng thức này giống như đại dương có thể tạo ra những làn sóng thần mạnh mẽ vô cùng mà chúng ta khó kiểm soát được sự bộc phát của nó. Hành giả thực tập thiền định dễ nhận ra những cơn cuồng phong ngủ ngầm trong tâm thức chúng ta; nói cách khác, đó là những đòi hỏi của chính chúng ta, mạnh nhất là năm thứ ham muốn: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn và ngủ. Ngũ dục thường trú trong tâm ta, thường bộc phát và sai khiến chúng ta phải làm theo, dẫn chúng ta vào con đường phiền não, khổ đau.

Nhận chân được tác hại của thức ấm, chúng ta đem Phật pháp vào tâm một cách miên mật, để xóa bỏ lần những hiểu biết khuấy động tâm định tĩnh và nhận thức sáng suốt của mình. Đến khi những làn sóng ngầm phiền não trong tâm thức không còn đủ sức nổi dậy, không còn khả năng phá hại tâm trí chúng ta, là đã chuyển đổi thức ấm thành Giải thoát tri kiến Pháp thân.

Những chúng sinh phàm phu, vì không biết thực hành Phật pháp, để cho thân ngũ ấm phát triển theo chiều hướng sai lầm, tội lỗi, chắc chắn họ đã tạo dựng thế giới khổ đau cho chính họ ngay trong cuộc sống hiện tại và ba thế giới cùng cực khổ đau là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh đã mở rộng chờ đón họ sau khi bỏ nghiệp thân này. Cứ như vậy mà chúng sinh trôi lăn trong sáu thế giới sinh tử luân hồi.

Như vậy, chúng sinh vô minh không chuyển đổi tâm linh theo hướng thánh thiện như Đức Phật chỉ dạy, mà chỉ lo phát huy đời sống vật chất theo chiều hướng xấu ác. Từ đó,  họ đã tạo thành thế giới bị thiêu đốt hừng hực mà Đức Phật gọi là Nhà lửa. Thực tế cuộc sống cho thấy rõ ở thế kỷ XXI, con người tự hào rằng đã vươn đến đỉnh cao của văn minh tiến bộ, nhưng vô số cảnh tượng chết chóc, đói khát, bệnh tật, tàn phá môi sinh… lúc nào cũng ở mức báo động đỏ. Thật sự chỉ vì mọi việc làm của con người đã phát xuất từ tâm ác độc, thù hận, ích kỷ, tham lam, mù quáng… Ngũ ấm thân của con người đang thiêu đốt chính họ, thiêu đốt cả xã hội và thiêu đốt cả hành tinh này.

Đối với hàng đệ tử Phật, nhận chân sâu sắc con đường phát huy trí tuệ và đạo đức theo Phật bằng cách gạn lọc những sai lầm của ngũ ấm thân để chuyển đổi thành ngũ phần Pháp thân. Chính ngũ phần Pháp thân: giới, định, huệ, giải thoát và giải thoát tri kiến là nền tảng tốt đẹp nhất để tạo thành thế giới thanh tịnh gọi là Tịnh độ.

Điển hình như cảnh giới Tây phương chưa phải là cõi Tịnh độ khi Đức Phật Di Đà chưa đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác. Nhưng khi Ngài thành Phật, thế giới nội tâm của Phật Di Đà hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt, giải thoát, tạo thành thanh tịnh Pháp thân. Và Pháp thân Phật Di Đà phát huy đến đâu thì chuyển đổi nơi đó trở thành thanh tịnh, đẹp đẽ, an vui; đến khi Ngài thành tựu đỉnh cao của Pháp thân, là hoàn thành được thế giới có cuộc sống an lạc cùng cực, gọi là cõi Cực lạc.

Tóm lại, tịnh hóa tâm là tịnh hóa quốc độ. Đức Phật cũng khẳng định rằng tâm tịnh thì thế giới tịnh, tâm ô uế sẽ tạo ra cảnh nhơ bẩn, khổ đau. Như vậy, tịnh hay uế là do con người tự tạo ra mà thôi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là biểu tượng của thân phước đức và trí tuệ vẹn toàn và đời sống của hàng Thánh chúng kề cận bên Đức Phật tạo thành cảnh giới thanh tịnh, giải thoát, an lạc mà bất cứ người nào có phước duyên đến cúng dường, học hỏi cũng đều được thấm nhuần niềm an vui, giải thoát. Cũng như bước chân giải thoát của Đức Phật hóa độ đến nơi nào là nơi đó trở thành Tịnh độ. Cho đến ngày nay, trải qua thời gian dài hơn hai ngàn năm trăm năm, trên khắp năm châu, hàng hàng lớp lớp người đã, đang và sẽ sống mãi với ngũ phần Pháp thân, vẫn luôn luôn xây dựng được Tịnh độ cho chính mình, cho những người xung quanh, cho xã hội và cho cả Pháp giới chúng sanh nương nhờ.

HT. Thích Trí Quảng (Theo Nguyệt san Giác Ngộ)

 


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage