Phật Học Online

Lược giải những pháp số căn bản: số sáu
Biên tập: Cư sĩ Hạnh Cơ

Số 6

 

SÁU GIÁC QUAN, SÁU ĐỐI TƯỢNG của GIÁC QUAN,

và SÁU THỨC (lục căn, lục trần, lục thức)

 

Bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ, không phải tự nó sinh ra, mà phải nương vào những hiện tượng khác, và chỉ khi nào hội đủ các điều kiện cần thiết, thuận lợi, thì mới phát sinh được. Cái “BIẾT” của chúng ta cũng vậy, muốn được phát sinh cũng phải có điều kiện: đó là khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng của chúng.

Duy Thức Học gọi giác quan là “căn”, đối tượng của giác quan là “trần” hay “cảnh”, và cái biết là “thức”. Khi căn tiếp xúc với trần thì phát sinh ra thức. Căn là các hiện tượng sinh lí; trần là các hiện tượng vật lí; và thức là các hiện tượng tâm lí. Theo Duy Thức Học thì con người có cả thảy là tám thức(1), nhưng vì chỉ có sáu thức là có liên hệ mật thiết với các hiện tượng sinh-vật-lí (không có các hiện tượng này thì chúng không thể phát sinh và tồn tại được), nên ở đây chúng ta có các pháp số riêng nói về 6 thức và 12 điều kiện cần thiết để phát sinh ra chúng, là 6 căn6 trần:

1. Mắt (nhãn căn) tiếp xúc với hình sắc (sắc trần), phát sinh ra cái biết ở mắt – tức là thấy (nhãn thức).

2. Tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh trần), phát sinh ra cái biết ở tai – tức là nghe (nhĩ thức).

3. Mũi (tị căn) tiếp xúc với mùi hương (hương trần), phát sinh ra cái biết ở mũi – tức là ngửi (tị thức).

4. Lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với vị (vị trần), phát sinh ra cái biết ở lưỡi – tức là nếm (thiệt thức).

5. Thân thể (thân căn) xúc chạm với các vật thể (xúc trần), phát sinh ra cái biết ở thân thể – tức là cảm xúc (thân thức).

6. Ý (ý căn, hay thức mạt-na) tiếp xúc với ý tượng (pháp trần), phát sinh ra cái biết ở ý – tức là nhận biết (ý thức).

Duy Thức Học phân biệt có hai phần của một giác quan (căn): phần lộ ra ngoài, dễ trông thấy bằng mắt thường, gọi là giác quan thô phù (phù trần căn), và phần ẩn kín bên trong, khó trông thấy được bằng mắt thường, gọi là giác quan vi tế (thắng nghĩa căn, hoặc tịnh sắc căn). Như con mắt (nhãn căn) chẳng hạn, tất cả các bộ phận bên ngoài của con mắt, nhìn là thấy ngay, là giác quan thô phù; còn võng mô, thần kinh thị giác là giác quan vi tế. Vậy có thể nói, tất cả hệ thống thần kinh cảm giác và trung tâm tiếp nhận ấn tượng cảm giác ở trong não bộ đều là giác quan vi tế, và đó là phần chính yếu để phát sinh ra nhận thức. Lại nữa, trong sáu căn thì ý căn là giác quan đặc biệt nhất. Nó cũng gồm có hai phần, nhưng cả hai phần đều không thể trông thấy bằng mắt thường được. Phù trần căn của nó là phần vi tế ẩn trong não bộ, vẫn còn nằm trong lĩnh vực sinh lí, nhưng thắng nghĩa căn, phần chính yếu của nó thì hoàn toàn thuộc lĩnh vực tâm lí, không thể dùng bất cứ một dụng cụ khoa học nào để thấy được nó, đó là một tác dụng nhận thức: thức mạt-na(1). Nói cách khác, thức mạt-na chính là căn cứ địa của ý thức. Trong khi đó, đối tượng của ý căn là pháp trần cũng không phải là những hiện tượng vật chất cụ thể và giản dị như các “trần” khác, mà rất phức tạp và trừu tượng, bao gồm các đối tượng cảm giác, các ý tượng, ảnh tượng, và tư tưởng không ảnh tượng.

Khi nói: căn tiếp xúc với trần phát sinh ra thức, mới nghe thì có vẻ giống như chủ trương duy vật, nhưng sự thật không phải thế. Căn và trần ở đây mới chỉ là điều kiện phụ giúp (tăng thượng duyên) – một trong bốn điều kiện (tứ duyên)(2) để hình thành một hiện tượng. Thức đã có hạt giống ở trong tàng thức, và đó mới là điều kiện chính (nhân duyên) để phát sinh ra thức.

Khi chỉ cần nói đến năm giác quan và năm đối tượng thì chúng ta có hai pháp số là năm căn (gồm mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) và năm trần (gồm hình sắc, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm).

Mặt khác, có khi chúng ta còn thấy có một pháp số gọi là “Sáu Tiếp Xúc” (lục nhập)(3), dùng chỉ chung cho sáu căn và sáu trần. Sáu tiếp xúc bao hàm “sáu tiếp xúc trong” (lục nội nhập – tức là sáu căn) và “sáu tiếp xúc ngoài” (lục ngoại nhập – tức là sáu trần). Vậy, danh số “lục nhập” ở đây có một nghĩa đầy đủ là “lục nội nhập” và “lục ngoại nhập” tiếp xúc với nhau để phát sinh ra sáu thức. Nếu cộng “6 tiếp xúc trong” với “6 tiếp xúc ngoài”, chúng ta có “Mười Hai Tiếp Xúc”. Rốt cuộc, “6 tiếp xúc” cũng tức là “12 tiếp xúc”, mà danh từ Phật học Hán Việt gọi là “thập nhị nhập”, hay “thập nhị xứ” (nghĩa là 12 khu vực). Nếu gộp chung cả 6 căn, 6 trần và 6 thức thì chúng ta sẽ có một pháp số liên hệ khác nữa là “Mười Tám Khu Vực” (thập bát giới). 

 

CHÚ THÍCH

(1) Xin xem mục “Tám Thức” ở sau.

(2) Xin xem lại mục “Bốn Điều Kiện” ở trước.

(3) Trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, Tổ sư Khương Tăng Hội (đầu thế kỉ thứ 3 Tây lịch, được xem là vị Giáo Tổ của Phật giáo Việt-nam) gọi “Sáu Tiếp Xúc" là “Sáu Tình” (lục tình). Muốn biết rõ về Tổ Sư Tăng Hội và vai trò của ngài đối với lịch sử Phật giáo Việt-nam, xin xem sách Việt Nam Phật Giáo Sử Luận - Quyển I, của giáo sư Nguyễn Lang, do Lá Bối (Paris) xuất bản.

 

SÁU NẺO

(lục đạo - lục thú)

 

“Đạo” là đường đi nẻo về; “thú” là xu hướng, đi tới. Pháp số này được tất cả các kinh luận Phật giáo dùng để chỉ đích xác cho cái vòng lẩn quẩn của sinh tử luân hồi. Sáu nẻo luôn luôn là “sáu nẻo luân hồi”, tức là sáu thế giới, sáu môi trường sống của các loài chúng sinh còn phải nhận chịu những quả báo đau khổ, bị ràng buộc bởi phiền não, bị che phủ bởi vô minh, chưa được an vui, giác ngộ, giải thoát; gồm có: 1) Trời, 2) Người, 3) A-tu-la, 4) Súc-sinh, 5) Ngạ-quỉ, 6) Địa-ngục. Sáu nẻo này là 6 trong 10 thế giới đã đề cập trong mục “Một Niệm Ba Ngàn” ở trước. Nếu phân chia theo cách khác thì chúng ta có pháp số “Ba Cõi” (đã trình bày ở trước) “Chín Cõi” (sẽ trình bày ở sau). Nghiệp chính là động lực duy nhất đưa chúng sinh đến, đi, lui, tới (luân hồi) trong sáu nẻo này.

 

 

SÁU NGUYÊN TẮC

SỐNG CHUNG HÒA HỢP

(lục hòa) 

 

Khi còn tại thế, đức Phật đã chế ra sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp để áp dụng trong nếp sống tăng đoàn. Tuy vậy, vì sự lợi ích thiết thực và phổ cập của chúng, ngày nay, sáu nguyên tắc sống này không những được áp dụng cho chúng xuất gia mà còn cho cả chúng tại gia, để kiến tạo cho hàng Phật tử một đời sống gia đình và xã hội hạnh phúc nhất và tiến bộ nhất.

1. Người Phật tử cùng chia xẻ với nhau một mái nhà (nếu là một gia đình), hay một hoàn cảnh sinh hoạt cộng đồng (nếu là một đoàn thể, một tổ chức); chấp nhận một cách hoan hỉ sự có mặt của nhau. (Thân hòa đồng trụ.)

2. Người Phật tử cùng học tập và giữ gìn những giới luật cũng như những kỉ luật đã được chấp nhận như là những nguyên tắc hướng dẫn đời sống của cộng đồng. (Giới hòa đồng tu.)

3. Người Phật tử chia xẻ và trao đổi với nhau những kiến thức và kinh nghiệm tu học mà mình có được. Những kiến thức và kinh nghiệm này sẽ bổ túc cho nhau những thiếu sót, sẽ hàn gắn và gây lại niềm tin tưởng cho nhau sau những thất bại, sẽ khai mở cho nhau những chân trời mới lạ trong quá trình tu học cũng như phụng sự xã hội. (Kiến hòa đồng giải.)

4. Tài sản công cộng là của chung mọi người, người Phật tử có quyền chia xẻ và sử dụng tùy theo

nhu yếu của mình, không bao giờ lấn át người khác, cũng không khởi tâm chiếm hữu làm của riêng. Mọi người cùng có trách nhiệm giữ gìn, bồi đắp những tài sản chung đó. (Lợi hòa đồng quân.)

5. Người Phật tử giữ gìn lời nói thật từ tốn, không cãi cọ, tranh chấp và giận hờn với những người khác; nói lời nhã nhặn, xây dựng và bồi đắp, không gây chia rẽ, không làm tan rã đoàn thể. (Khẩu hòa vô tránh.)

6. Người Phật tử luôn luôn cởi mở, bỏ tính cố chấp, biết lắng nghe và dung hòa những ý kiến khác biệt nhau để chấp nhận nhau và sống an vui với nhau trong tình thương và hiểu biết. (Ý hòa đồng duyệt.)

 

 

SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM

(lục diệu môn - lục diệu pháp môn)

 

Thiền tập là bước khởi hành quan trọng của nếp sống tỉnh thức. Có sáu pháp môn mà nếu thực tập đúng mức thì sẽ rất hữu hiệu cho công phu thiền tập. Sáu pháp môn này sở dĩ được gọi là mầu nhiệm vì chúng thực sự là những cánh cửa đưa hành giả đến thành quả giác ngộ.

1. Phép đếm hơi thở (sổ tức môn).

Giai đoạn đầu tiên và sơ đẳng của công phu thiền tập là đếm hơi thở. Mục đích của việc đếm hơi thở là để chận đứng loạn tưởng. Hành giả có thể thực tập theo những điều chỉ dẫn trong sách Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức của thiền sư Nhất Hạnh (nhất là những điều mang số 3a, 3b và 3c, mục “Ba Mươi Mốt Bài Thực Tập”).

2. Phép theo dõi hơi thở (tùy tức môn).

Sau khi tâm ý đã được “cột” lại bằng cách đếm hơi thở, hành giả hãy bỏ phép đếm hơi thở đi mà thực tập phương pháp tiếp theo là theo dõi hơi thở. Phương pháp này có khả năng làm tăng thêm sự định tâm; đồng thời nó cũng có công dụng dưỡng thần(1), và làm phát sinh niềm hỉ lạc. Để thực tập, hành giả có thể áp dụng các điều hướng dẫn mang số 3e và 3g (mục “Ba Mươi Mốt Bài Thực Tập”) và phần đầu của kinh Quán Niệm trong sách Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức.

3. Phép dừng lại (chỉ môn).

Tâm ý của hành giả bây giờ đã được tĩnh lặng. Hãy tiếp tục nắm giữ hơi thở điều hòa, nhưng bỏ sự theo dõi hơi thở đi, để bước vào pháp môn thứ ba là làm cho sự quên lãng, sự mê muội của tâm ý dừng lại. Mục đích của hành giả khi thực tập pháp môn này là để có được chánh niệm. Quên lãng, mê muội, loạn tưởng là những tình trạng “thất niệm” (nghĩa là mất chánh niệm). Vậy, làm cho tâm ý dừng lại không có nghĩa là cắt đứt tâm ý hay nhốt tâm ý lại, mà là chuyển tâm ý từ thất niệm thành chánh niệm. Cách thực tập tốt nhất cho pháp môn này là cách “nhận diện”. Nhận diện là nhận biết rõ ràng về mọi tư thế (đi, đứng, nằm, ngồi) và mọi hành động (nghĩ gì, nói gì, làm gì) của thân thể mình. (Xin xem hướng dẫn thực tập trong sách Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức.)

4. Phép nhìn để thấy rõ (quán môn).Thiền tập không phải là ngồi yên lặng để suy nghĩ về một vấn đề. Thiền tập là để đạt được tuệ giác, và tuệ giác chỉ bừng sáng nhờ công phu quán chiếu (nghĩa là nhìn sâu để thấy rõ) chứ không phải nhờ suy nghĩ.  Thiền sư Nhất Hạnh nói: “Mục đích của thiền quán là để thấy được mặt mũi của thực tại, thực tại này là tâm và đối tượng nhận thức của tâm.” (Trái Tim Mặt Trời, Lá Bối xuất bản.) Vậy, trong thiền tập, công trình quán chiếu (quán môn) bao giờ cũng phải đi song song với công trình nhận diện (chỉ môn). Về giáo lí hướng dẫn cho chỉ môn và quán môn này, xin xem sách Trái Tim Mặt Trời (quan trọng nhất là các tiết mục “Niệm, Định và Huệ”, “Bung Một Nồi Ngô”, “Khán Một Thoại Đầu”, “Chánh Niệm Vừa Là Nhân Vừa Là Quả”, và “Suy Tư Về Cái Không Thể Suy Tư” của Chương Một). Về thực tập, xin y cứ theo sách Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức (phần thực tập) và các kinh Quán Niệm, An Ban Thủ Ý, Bách Thiên Tụng Bát Nhã.

5. Phép trở về (hoàn môn).“Chỉ”“quán” phải được coi là hai pháp môn trung tâm của công phu thiền tập; đó chính là động lực mạnh mẽ nung nấu cho tuệ giác bừng sáng. Nhưng nếu cứ mải mê quán chiếu rồi để cho tâm ý đi sai lạc vào nẻo kiến chấp, phân biệt (thấy có tâmvật, có chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu) thì tuệ giác lại không thể nào bừng sáng được. Cho nên hành giả phải thực tập pháp môn “trở về” để đập vỡ những thành kiến, cố chấp (tức là phá trừ ngã chấp). “Trở về” tức là trở về với thực tại chân lí, trở về để nhìn thấy bản tính của mình, bằng cách thắp sáng hiện hữu, ý thức rõ ràng về hiện sinh của vạn hữu, thấy rõ vạn hữu trong liên hệ mật thiết với tự tính. Nói cách khác, trở về với thực tại chân lí là thấy thực tại bằng trực giác kinh nghiệm của con mắt giác ngộ chứ không phải bằng tri giác phân biệt, suy tư, hay khái niệm.

6. Phép trong sạch (tịnh môn).Pháp môn “trở về” đã giúp hành giả phá vỡ mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt để thấy rõ được mặt mũi chân thật của thực tại mầu nhiệm; nhưng nếu hành giả còn thấy rằng chính mình đã chứng đắc tư cách ấy thì tâm ý của hành giả vẫn còn vướng mắc, còn có chỗ “trụ”, còn có ý niệm “thọ”, và như thế tức là tâm ý vẫn còn bị ô nhiễm. Vậy đến đây, hành giả cần trong sạch hóa tâm ý đến tận cùng bằng cách gột rửa hoàn toàn ý niệm về “trụ”, về “đắc”, về “chứng ngộ” v.v...; nghĩa là hành giả phải ở trong trạng thái được diễn tả như trong kinh Kim Cương“vô sở trụ”, hay trong kinh Bát Nhã“vô sở đắc”, hoặc như trong kinh Bốn Mươi Hai Chương“vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng”.  Đó là trạng thái giác ngộ và giải thoát toàn vẹn. Ở trạng thái này, hành giả là người hoàn toàn tự do, tự chủ, bình thản, an lạc, không còn bị bất cứ một vọng tưởng nào đánh lừa, hoặc một khái niệm nào che khuất; do đó, với trí phương tiện của bậc giác ngộ, hành giả có thể tới lui tự tại trong biển sinh tử để hành đạo mà không cần phải trốn tránh hay sợ hãi gì nữa.

Nếu coi hai pháp môn “sổ tức”“tùy tức” là giai đoạn khởi đầu, hai pháp môn “chỉ”“quán” là giai đoạn trung tâm, thì hai pháp môn “hoàn”“tịnh” chính là giai đoạn hoàn tất của công phu thiền tập.  Nhưng đó cũng chỉ là cái nhìn phương tiện mà thôi. Thực ra, cũng như những pháp số khác, đối với pháp số này, hành giả cũng phải có một cái nhìn toàn bộ để thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa sáu pháp môn với nhau. Một pháp môn có mặt trong tất cả sáu pháp môn, và ngược lại, cả sáu pháp môn đồng thời có mặt trong một pháp môn. Trong lúc thiền tập cũng vậy, nếu thiếu một pháp môn nào trong sáu pháp môn này thì công phu tu tập sẽ trở thành dở dang, không đem lại kết quả trọn vẹn.

 

CHÚ THÍCH

 (1) Xin xem Giới Tiếp Hiện Chú Giải (Giới thứ mười bốn) để hiểu thêm về “thần”. 

 

 

SÁU PHÉP QUA BỜ

(lục độ - lục ba la mật)

 

Người Trung-hoa phiên âm tiếng Phạn “pàramità” thành “ba-la-mật-đa”, hay gọn hơn là “ba-la-mật”, và dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn”, hay “độ”. Nghĩa tiếng Việt của “đáo bỉ ngạn” là đến bờ bên kia, và “độ” là qua, vượt qua, đưa qua. Đạo Phật thường ví vô minh, mê muội như là dòng sông (sông mê), và sinh tử luân hồi như là biển cả (biển sinh tử). Vậy, “qua bờ” là vượt qua sông mê để đến được bờ giác ngộ, vượt qua biển sinh tử để đến được bến giải thoát. Sáu phép qua bờ là sáu hạnh tu tập lớn lao của người phát tâm Bồ-tát. Nhờ thực hành sáu đại hạnh này mà Bồ-tát có thể tự mình đến (tự độ) và đưa bao nhiêu người khác cùng đến (độ tha) bờ giác ngộ.

1. Bố thí.“Bố thí” là san sẻ, giúp đỡ người khác bằng những gì mình có. Hành giả có thể bố thí bằng những phương tiện vật chất như tiền của, cơm áo, thuốc men v.v... Hành giả có thể bố thí bằng sự dạy dỗ, giảng thuyết giáo pháp nhằm nâng cao trình độ hiểu biết, khai mở trí tuệ, làm cho người ta thấy được điều hay lẽ thật và quay về nếp sống cao thượng. Hành giả có thể bố thí bằng những lời khuyên giải, trấn an, khuyến khích, hoặc bằng các hành động dũng cảm, tin cậy để đưa người ra khỏi những tình trạng bế tắc, nghi nan, bối rối, khủng hoảng, lo âu, sợ hãi. Hóa giải được những hận thù giữa hai người, hai nhóm, hai chủng tộc, hai quốc gia v.v... để đưa họ trở về sống trong hòa bình, thương yêu và tin cậy là một hành động bố thí thật lớn lao và có ý nghĩa của hành giả. Tóm lại, trong tất cả mọi trường hợp, hành giả biết đem khả năng, thì giờ và tâm lực để phục vụ giúp đời, đều là những hành động bố thí chính đáng của người thực hiện hạnh Bồ-tát.

2. Trì giới.“Trì giới” là giữ gìn giới hạnh để ngăn ngừa tội lỗi, tạo cho mình cái phong cách đoan trang, hành vi chính đáng. Giới có khả năng giúp cho hành giả thường xuyên sống trong chánh niệm, tăng trưởng định lực và phát huy trí tuệ. (Xin xem lại mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước.)

3. Nhẫn nhục.“Nhẫn nhục” là nhịn nhục, chịu đựng. Tục ngữ Việt-nam có câu: “Một câu nhịn chín câu lành.” Chữ “nhịn” ấy là nói lên đức tính nhẫn nhục của con người đức độ. Với đức tính này, hành giả có thể chịu đựng được mọi nghịch cảnh bất cứ từ đâu tới. Nhưng đừng hiểu lầm rằng, muỗi đốt thì cứ để yên cho muỗi đốt, không chống cự, thì gọi là chịu đựng! Trường hợp này, đức Phật có dạy bằng một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người ngu si, trông thấy đầu một vị sư không có tóc thì cho rằng đó là cái mõ, bèn lấy gậy đánh như đánh mõ. Trong lúc đó thì vị sư lại nghĩ rằng, đã là kẻ tu hành thì phải nhẫn nhục, rồi cứ đứng yên chịu đánh, cho đến khi bể đầu! Đó không phải là vị sư tu hạnh nhẫn nhục. Người đánh kia đã ngu si mà vị sư ấy cũng không sáng suốt hơn gì!

Ý nghĩa của hạnh nhẫn nhục là khi gặp các nghịch cảnh như vậy thì hành giả không sinh tâm giận dữ, oán hận, than trách kẻ nghịch, nhưng cũng không âm thầm chịu đựng một cách khờ dại, thụ động, mà phải tìm cách hóa giải để hoán cải kẻ nghịch bằng tất cả tình thương, sự hiểu biết và lòng cởi mở của mình. Vì có tình thương và trí tuệ soi sáng, hành giả có thể chịu đựng được cảnh bất công, đàn áp, không kêu than, không thù hận, nhưng cũng phải vì mình và vì người, tìm mọi cách thay đổi tình trạng bất công, đàn áp ấy, để cho mọi người cùng có được đời sống công bằng, hạnh phúc. Mặt khác, người tu hạnh nhẫn nhục không những chỉ chịu đựng được nghịch cảnh mà còn chịu đựng được cả những sức tấn công của ái dục, giàu sang, danh lợi và địa vị, bởi vì thực chất của những thứ này vẫn chỉ là những nọc độc làm hại huệ mạng của hành giả. Không những thế, khi đạt được những thành quả tốt đẹp trong các công tác Phật sự, ngay cả khi chứng đắc những pháp môn đang tu tập, mà hành giả vẫn an nhiên, không kiêu căng, không tự mãn, không thấy mình có chứng đắc, đó là hành giả đang thực hành hạnh nhẫn nhục ở mức độ cao tột. Tóm lại, người có đức nhẫn nhục là người luôn luôn có thái độ hòa nhã, an nhiên, tự tại trong mọi trường hợp, nghịch cảnh cũng như thuận cảnh, thất bại cũng như thành công, chưa chứng đắc cũng như đã chứng đắc.

4. Tinh tấn.

Sống giữa hoàn cảnh xấu xa mà không bị ô nhiễm, gọi là “tinh”; tâm niệm lúc nào cũng hướng về các việc chân chính, gọi là “tấn”. Vậy chữ “tinh tấn” nói lên cái ý chí kiên trì, dũng mãnh của hành giả luôn luôn thăng tiến trong sự nghiệp giác ngộ, như đã được trình bày trong mục “Bốn Sự Cần Mẫn” ở trước.

5. Thiền định.

“Thiền định” là trạng thái tĩnh lặng của tâm ý, khi mọi loạn tưởng, vọng động đã hoàn toàn lắng đọng. (Xin xem lại mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước.)

6. Trí tuệ.

“Trí tuệ” là tuệ giác sáng tỏ sau khi đã diệt trừ mọi phiền não, kiến chấp, vô minh. (Xin xem lại mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước.) Kinh Di Giáo dạy: “Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn có thể chở ta qua khỏi biển già, biển bệnh, biển chết; là ngọn đèn rất sáng tỏ có thể soi sáng tận cùng chỗ tối tăm u ám; là thang thuốc mầu nhiệm chữa lành mọi chứng bệnh; và là cây búa lớn chặt đứt cả vô minh.”

Đối với sáu phép qua bờ này, trong khi quán chiếu cũng như thực hành, người tu học phải thấy được mối liên quan mật thiết của chúng. Chúng theo nhau như bóng với hình. Chúng bổ túc cho nhau và đồng thời làm nền tảng cho nhau. Trong bố thí đồng thời cũng có mặt của trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ; và trong nhẫn nhục, trí tuệ v.v... cũng vậy. Cứ thiếu đi một pháp môn thì năm pháp môn kia sẽ trở nên yếu ớt, què quặt. Sáu phép qua bờ là cả một toàn bộ đại hạnh của Bồ-tát.

 

 

SÁU TÍNH CHẤT CỦA HẠT GIỐNG

(chủng tử lục nghĩa)

 

Hạt giống (chủng tử) là nguồn năng lượng phát hiện ra mọi hiện tượng. Tất cả mọi hạt giống đều được chứa đựng trong tàng thức (sẽ được đề cập tới trong mục “Tám Thức” ở sau). Hạt giống có sáu tính chất:

1. Biến chuyển từng sát na (sát na diệt). Vì tính chất của tàng thức là luôn luôn chuyển biến và hoạt động liên tục không gián đoạn, cho nên tất cả mọi hạt giống chứa đựng trong nó cũng luôn luôn chuyển biến, sinh diệt từng sát na, liên tục không gián đoạn.

2. Quả sinh ra cùng lần với nhân (quả câu hữu). Trong hạt giống (nhân) đã sẵn ẩn tàng có quả. Vì vậy, hễ có nhân là đồng thời có quả. Khi mắt thấy sắc thì tức khắc có cái “biết” của mắt. Cái biết của mắt chính là hạt giống (nhân) chứa trong tàng thức mà cũng chính là cái biết được sinh ra (quả) khi mắt tiếp xúc với sắc.

3. Liên tục chuyển biến theo thức (hằng tùy chuyển). Khi thức phát khởi và biến chuyển thì hạt giống cũng biến chuyển theo thức, liên tục không gián đoạn.

4. Duy trì được tính chất của nó (tánh quyết định). Nếu là hạt giống lành thì nó luôn luôn giữ được tính chất lành của nó. Nếu là hạt giống giận thì nó luôn luôn giữ được tính chất giận của nó.

5. Đợi có đầy đủ các điều kiện cần thiết mới phát hiện (đãi chúng duyên). Phải có tai tiếp xúc với âm thanh thì hạt giống “nhĩ thức” mới phát hiện.

6. Hạt giống đem lại kết quả của chính nó (dẫn tự quả). Hạt giống nào thì phát khởi hiện hành của hạt giống ấy. Hạt giống lúa thì đem lại kết quả là cây lúa.


© 2008 -2024  Phật Học Online | Homepage