PHẦN I
LÒNG TIN LÀ GỐC VÀO ĐẠO
Kinh Hoa Nghiêm dạy:
"Lòng tin là gốc vào đạo, là mẹ đẻ mọi công đức. Lòng tin hay nuôi lớn
các căn lành. Lòng tin có thể vượt qua các đường ma. Lòng tin có thể
được vào định. Lòng tin có thể thoát biển sinh tử luân hồi. Lòng tin có
thể thành tựu đạo Giác ngộ của Phật".
Kinh Hoa Nghiêm lấy Thập tín(1) làm điểm khởi đầu của sự thành Phật. Kinh Pháp Hoa lấy Chánh tín làm cửa để vào Đạo. Ngũ căn(2) lấy Tín căn làm đầu. Ngũ lực lấy Tín lực làm trước. Kinh A Di Đà cũng lấy Tín làm đầu.
Vì thế, chư Phật trong
ba đời, chư đại Bồ Tát, lịch đại Tổ Sư tu các công hạnh, đầy đủ đại
nguyện lực, vào cảnh giới Phật, thành tựu Bồ Đề, chưa có ai không từ nơi
chữ Tín này mà bước vào. Lòng tin quan yếu như vậy nên hôm nay tôi phát
tâm cố gắng đem hết tâm lực để trình bày những hiểu biết nông cạn của
mình, mong quý vị củng cố thêm lòng tin Tịnh Độ. Tôi sẽ chia xẻ tất cả
những kinh nghiệm nhỏ nhen về hành trì niệm Phật trong nhiều năm tịnh tu
vừa qua, đồng thời rất hoan hỷ học hỏi ở quý vị những kinh nghiệm hành
trì mà quý vị đã gặt hái được, để rồi cùng nhau công phu đắc lực hơn hầu
chúng ta đồng vãng sanh Cực Lạc thành Phật độ chúng sanh.
Cổ đức dạy: "Pháp môn niệm Phật là pháp môn hợp thời cơ, dễ tu, dễ chứng".
1.- Hợp Thời Cơ:
Tượng Pháp Quyết Nghi
Kinh dạy: "Sau khi Phật diệt độ là thời chánh pháp trong năm trăm năm
trì giới kiên cố. Thời tượng pháp một ngàn năm kế tiếp thiền định kiên
cố. Thời mạt pháp một muôn năm niệm Phật kiên cố". Kiên cố nghĩa là
thành tựu.
a.- Đức Thế Tôn nhập
Niết Bàn nay đã hơn hai ngàn năm trăm năm mươi lăm bốn (2554). Như vậy,
hiện ta đi vào thời mạt pháp hơn một ngàn năm rồi, mà càng đi sâu vào
thời mạt pháp thì đức trí chúng sanh càng hạ liệt.
b.- Kinh Đại Tập dạy:
"Đời mạt pháp ức ức người tu hành hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có
nương vào niệm Phật mới thoát khỏi sanh tử".
c.- Tổ thứ mười ba Ấn
Quang Đại Sư dạy: "Cửu giới chúng sanh lìa pháp môn này thì trên chẳng
thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới
chẳng thể lợi khắp quần sanh".
2.- Dễ Tu:
a.- Vì mọi người: Ai
ai cũng niệm Phật được, bất luận tăng tục, ngu trí, vua quan, dân thứ,
nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, sĩ, nông, công, thương, binh, đau
ốm bệnh tật đều niệm Phật được cả.
b.- Vì mọi nơi: Ở đâu
cũng niệm Phật được, như ở chùa, ở nhà, nhà thương, nhà bảo sanh, sở
làm, công xưởng, rừng sâu, núi thẳm, trời cao, bể cả thậm chí ở nhà vệ
sinh, nhà tắm, nhà bếp đều niệm Phật được cả.
c.- Vì mọi lúc: Lúc nào sáng, trưa, chiều, tối, ngủ cũng niệm Phật được.
d.- Vì mọi oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi, bò, leo, chạy, nhảy đều niệm Phật được.
e.- Vì mọi cách: Niệm
lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, niệm thầm, niệm bằng ý, niệm lần chuỗi, niệm
theo hơi thở, niệm theo tiếng khánh... niệm cách nào cũng được miễn sao
không xen tạp, không gián đoạn là được.
g.- Vì mọi hoàn cảnh:
Mọi hoàn cảnh, mọi tình huống đều niệm Phật được, như rảnh rang, bận
rộn, vui buồn, hờn giận, ồn ào hay yên lặng... đều niệm Phật được cả.
h.- Vì giản dị mà bao trùm các pháp, hiệu quả cao. Chỉ cần niệm sáu hay bốn chữ mà giải thoát sanh tử luân hồi, thành Phật.
Tổ Liên Trì dạy: "Một câu A Di Đà Phật gồm hết tám giáo, nhiếp cả năm tông".
Tổ Trí Húc dạy: "Niệm A Di Đà Phật được thuần thục, thời tam tạng(3)
giáo lý gồm trong đó, một nghìn bảy trăm công án cơ quan hướng thượng
cũng ở trong đó, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới(4) cũng không ra ngoài câu Phật hiệu".
3.- Dễ chứng:
a.- Tự lực cộng tha
lực: Hành giả niệm Phật thuần thục thì trước giờ lâm chung được Phật A
Di Đà tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Nguyện thứ mười tám trong Kinh Vô
Lượng Thọ: "Lúc tôi thành Phật, chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chí tâm
tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ
mười niệm nếu chẳng được sanh thì chẳng lấy Chánh giác, chỉ trừ kẻ ngũ
nghịch, phỉ báng chánh pháp".
b.- Dễ vãng sanh: Chỉ
cần khởi ý muốn vãng sanh là được vãng sanh (Kinh Pháp Cổ). Cổ đức dạy:
"Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương". Tạm dịch
là: "Một câu Di Đà không niệm gì khác, không nhọc, khẩy tay đến phương
Tây" (Thế giới Cực Lạc).
c.- Dễ đắc: Là một khi
được vãng sanh thì chỉ cần một đời là thành Phật. Kinh Niệm Phật Ba La
Mật dạy: "Vãng sanh đồng ý nghĩa với thành Phật, vì vãng sanh tức là
thành Phật".
Vì vãng sanh Cực Lạc
dễ thành Phật, nên trên có những Đại Bồ Tát, chư Tổ, dưới thì chúng sanh
đều đồng nguyện vãng sanh. Sau đây, tôi xin lược sơ qua một số vị này.
Trên thì có:
- Đại Bồ Tát: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Giác Minh Diệu Hạnh.
- Chư Tổ tông phái khác: Mã Minh Tổ thứ mười hai Thiền; Long Thọ Tổ thứ mười bốn Thiền; Trí Giả Tổ Thiên Thai Tông; Hoằng Nhứt Tổ Sư Luật Tông...
- Thanh Văn: Xá Lợi Phất, A Nan.
- Chư Tăng:
Trí Nghị, Đàm Loan, Đạo Xước, Quán Đảnh, Đạo Ngan (Chư Thiên cõi trời
Đâu Xuất đến rước Ngài không đi, sau Chư Thánh Cực Lạc đến đón Ngài mới
chịu đi), Huệ Quang (như Ngài Đạo Ngan), Phi Tích, Hoài Ngọc (Bồ Tát
bưng đài bạc đến rước Ngài không đi, sau bưng đài vàng đến Ngài mới chịu
đi), Tri Huyền (Ngộ Đạt Quốc Sư), Hùng Tuấn (Ngài bị Diêm Vương kể tội
phá trai, phạm giới, Ngài khiếu nại, Diêm Vương tha và cho sống lại.
Ngài chí tâm niệm Phật, được vãng sanh Cực Lạc), Duy Cung (sư ăn thịt
uống rượu, nhờ sám hối, niệm Phật được vãng sanh), Tuân Thức (Từ Vân sám
chủ), Ưu Đàm (tác giả Liên Tông Bửu Giám), Hám Sơn (để lại nhục thân).
- Chư tăng Việt Nam:
Hòa thượng Thích Thiền Tâm, Hòa thượng Thích Giác Lập, Hòa thượng Thích
Thiền Định, Hòa thượng Thích Hồng Đạo, Thượng tọa Thích Thiện Tường, Sa
Di Thích Minh Đạt...
- Chư Ni: Huệ Mộc, Pháp Thạnh, Tịnh Chơn, Pháp Tạng, Sư Bà Thích Nữ Đàm Lựu.
- Cư sĩ:
Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hi, con gái của Ngụy Thế Tử (thấy cha và các anh
dù còn sống nhưng đã được ghi danh ở ao thất bảo), Việt Quốc phu nhơn
(chuyên tu Tịnh độ, khuyên người thiếp niệm Phật cầu vãng sanh, mộng du
Cực Lạc, vãng sanh Thượng Phẩm Thượng Sanh), Viên Hoằng Đạo (tác giả Tây
Phương Hiệp Luận, sanh Biên Địa), Vương Nhựt Hưu (tác giả Long Thư Tịnh
Độ), Chung Húc và Thiện Hòa (làm nghề giết gà và bò, trước khi chết
tướng ba đường ác hiện ra, vâng lời chư tăng niệm Phật, vãng sanh).
- Cư sĩ trên khắp thế giới:
Bà Diệu Âm Huỳnh Ngọc Tuyết, Bà Diệu Hưng, Bà Quảng Khánh, Chúc Quý Lư
Nhiên Phú, Thiện Bửu Nguyễn Văn Trí, Bà Diệu Âm Tô Vân Liên, Cụ bà Diệu
Chi Tăng Kim Lang, Đồng Hưng Lê Văn Hiếu, Bà Diệu Chánh, Bà Triệu Vĩnh
Phương, Bà Quảng Cánh Phạm Thị Tý, Bà Diệu Hoa Lê Thị Sen, Bà Lê Thị
Cúc, Bà Nhật Trâm Phan Thị Diệu Anh, Bà Nguyên Hoa Đoàn Thị Minh Hương,
Cụ Bà Huệ Chơn Lê Thị Mau, Cụ Nguyễn Thị Khương, Cụ Minh Đài Lưu Lâu,
Tuệ Minh Trần Nguyên Hạnh, Cụ Hồ Thị Lan, Cụ Bà Trần Thị Kiêm, Cụ Bà
Nguyện Thị Sáu, Phan Văn Anh, Cụ Ông Đoàn Quang Trung, Cụ Nguyễn Minh
Công, Cụ Trương Thị Nương, Cô Trần Thị Kim Phượng, cư sĩ Trương Biết.
Trên đây chỉ liệt kê tiêu biểu một số vị vì thật ra số lượng vãng sanh quá nhiều.
Hiện đời dễ thành tựu
tịnh nghiệp: Tu Bồ Tát hạnh phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp (vô
lượng kiếp) mới thành tựu đạo quả Bồ Đề. Còn tu Tịnh Độ chỉ cần một đời
là thành Phật.
Cổ đức ví dụ tu các
pháp môn khác khó khăn và lâu dài như con mối từ gốc tre, đục từng mắc,
từng mắc lên ngọn tre (gọi là thụ xuất). Còn tu Tịnh độ như con mối đục
ngang thân tre mà ra (gọi là hoành xuất), nhanh chóng, nhẹ nhàng.
Điển hình, trong vòng
một năm nay đã có quý Thầy, Sư cô dự định về chùa Tịnh Luật nhập Phật
Thất dài hạn... nào ngờ, quyết tâm hạ thủ công phu, mới hai ngày đã nhập
tâm. Lại nữa, có những cư sĩ nhập Phật thất mới bốn ngày được nhập tâm,
những cư sĩ tại gia khác dù bận đi làm (ca một, ca hai), chỉ về chùa
Tịnh Luật, dù niệm Phật vào ngày cuối tuần, thứ bảy, chủ nhật thôi, thế
mà vài tuần lễ cũng đã nhập tâm.
Cho đến ngày nay, qua
nhiều lần dự ngày Niệm Phật và Phật thất tại chùa Tịnh Luật, tính chung
tiểu bang Texas và mười tiểu bang khác (trong liên bang Hoa Kỳ) hiện có
trên bốn mươi (40) vị tại gia (có người niệm Phật nhiều năm nhưng chưa
thọ Tam quy, Ngũ giới) được nhập tâm (bước đầu của Bất Niệm Tự Niệm).
Khi đạt được Bất Niệm Tự Niệm hoàn toàn (không dụng công tác ý niệm
Phật, mà tự nhiên nghe tiếng niệm Phật liên tục không gián đoạn suốt
thời gian còn thức) thì bảo đảm vãng sanh, mà vãng sanh tức thành Phật
như nói trên.
Còn người xuất gia, có rất nhiều, rất nhiều nhưng quý Thầy, Sư cô khiêm nhường, cẩn thận vì mật hạnh nên không nói ra mà thôi.
Riêng Minh Tuệ tôi bất
đắc dĩ lắm phải nói ra để quý vị có niềm tin mà tu. Nay niềm tin đã có,
kết quả đã có, nên việc nói ra có thể không còn cần thiết nữa.
GHI CHÚ:
(1) Thập Tín: Gọi
đủ là Thập Tín Tâm, gọi tắt là thập tâm, chỉ cho mười Tâm mà Bồ Tát của
mười giai vị đầu tiên trong 52 giai vị tu hành. Mười tâm này thuộc tín
vị, có khả năng giúp cho hành giả thành tựu hạnh tín.
(2) Ngũ căn: Năm
pháp làm gốc nảy ra tất cả thiện pháp khác. Gồm có: Tín căn là tin
tưởng Tam Bảo, Tứ Đế; Tấn căn (còn gọi là Cần căn) là dũng mãnh tu thiện
pháp; Niệm căn là nhớ đến chính niệm pháp; Định căn là giúp cho tâm
định ở một cảnh mà không mất; Tuệ căn là suy nghĩ chân lý.
(3) Tam Tạng: Kinh, Luật và Luận.
(4) Tam Tụ Tịnh Giới: Giới Bồ Tát Đại thừa dù xuất gia hay tại gia đều tu được cả. Gồm có:
- Nhiếp Luật Nghi giới là thọ trì hết thảy giới luật - Nhiệp Thiện Pháp giới là lấy việc tu hành hết thảy thiện pháp làm giới.
- Nhiếp Chúng Sinh giới còn gọi là Nhiêu Ích Hữu Tình giới là lấy việc làm lợi ích cho hết thẩy chúng sinh làm giới.