Chương 2.
Chữ Tâm trong doanh nghiệp
Bài thuyết trình chia sẻ của ĐĐ.
Thích Nhật Từ tại Resot Phương Nam
- tỉnh Bình Dương ngày 12 -04 -2009.
Hiện nay, tại Việt Nam có khoảng
trên 360.000 doanh nghiệp, trong số đó TPHCM chiếm 1/3, tức khoảng 120.000
doanh nghiệp. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến số lượng doanh nghiệp
nước ta phải bỏ cuộc ước tính khoảng 10%. Nếu so sánh những nước bị ảnh hưởng
trực tiếp và có mối quan hệ giao dịch với nhóm G7, G8, G20 thì nước ta ít bị
tác động hoặc nếu có cũng không đáng kể. Dù như thế không có nghĩa là chúng ta
không lo lắng, và để cho vận mệnh của cuộc khủng hoảng tác động đến. Chính vì
thế mà Đảng và Nhà nước ta trong thời gian gần đây cũng đã đề ra nhiều chính
sách giúp kích cầu và khôi phục lại nền kinh tế trong nước. Phần thuyết trình
này, tôi xin chia sẻ về hai góc độ nhỏ từ cái nhìn của Phật giáo:
1. Phác
họa lại bức tranh mà sự khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đòi hỏi đến nhu
cầu phục hồi một cách cộng sinh trên toàn thế giới mà Hội nghị thượng đỉnh Nhóm
20 nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) diễn ra vào ngày 02.04. 2009 được kỳ
vọng là mang tính quyết định, ảnh hưởng lâu dài đến đời sống kinh tế tài chính
thế kỷ 21, với thông điệp của hội nghị là thế giới cùng bắt tay để giải quyết
khủng hoảng.
2. Doanh
nghiệp không chỉ ở Việt Nam
mà khắp nơi trên thế giới phải làm thế nào để xử lý tình huống nếu ta trở thành
nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ngoài
phương pháp luận về phương diện kinh tế, vấn đề xử lý cảm xúc dựa vào tinh
thần, kinh điển của đạo Phật là một nhu cầu giúp doanh nghiệp có thể đứng vững
và hoàn thành sứ mệnh chữ “Tâm”,
lợi dụng kinh tế đó để phục vụ cho mình, cho người, và cho xã hội.
Khủng hoảng kinh tế và giải pháp cộng sinh
Bản chất của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu liên hệ đến thị trường chứng khoán Mỹ -Wall street (phố Wall), giá nhà
liên tục rớt thê thảm từ khoảng tháng 06-2007 cho tới nay, đẩy các ngân hàng
rơi vào tình thế khó khăn, nợ xấu gia tăng khi số tài sản thế chấp khổng lồ
ngày càng mất giá trị. Để tránh thua lỗ nặng nề hơn, các ngân hàng thi nhau
ngừng cho vay. Kết quả sau 14 tháng, 4,4 triệu người Mỹ đã mất việc làm. Nước
Mỹ đã mạnh tay bơm hàng nghìn tỷ đôla để giải cứu thị trường tín dụng, trong đó
có 700 tỷ USD dành riêng cho các ngân hàng. Đến tháng 2 năm nay, chính quyền
Tổng thống Obama lại tiếp tục thiết kế gói cứu trợ thứ hai trị giá 787 tỷ USD.
Nỗ lực của Nhóm G20 là làm thế nào để cả thế giới cùng ngồi sát lại với nhau
tìm giải pháp kinh tế cho toàn cầu, mà nói theo ngôn ngữ Việt Nam là tạo mặt
trận để kích thích tốc độ tăng trưởng kinh tế, đảm bảo nguồn việc làm. Nếu nỗ
lực đó không phát xuất từ cái tâm cộng sinh quốc tế thì cho dù chúng ta có cái
tâm của doanh nghiệp, tâm của quốc gia, hay tâm của tập thể chăng nữa cũng đành
phải chịu đựng, ngồi nhìn sự sụp đổ và ảnh hưởng trực tiếp của nó đến đời sống
kinh tế, hạnh phúc gia đình của từng con người trên hành tinh này.
Giải pháp mà nhóm G20 đưa ra nói
theo ngôn ngữ Phật học đó là giải pháp duyên khởi, và nói theo ngôn ngữ hiện
đại đó là giải pháp cộng sinh. Trước đây, bản chất của nền kinh tế tự do mà Mỹ
khởi xướng được gọi là bàn tay vô hình, tức là sự điều tiết tự nhiên của bản
chất tự do trong kinh tế. Thế nhưng bây giờ người ta buộc phải chấp nhận một
giải pháp mới đó là bàn tay hữu hình của chính phủ. Giải pháp này cũng là đường
lối kinh tế được các nước thuộc khối cộng sản thực thi trong những năm qua,
nhưng vì mâu thuẫn của ý thức hệ sau phong trào giải phóng dân tộc trên toàn
thế giới, người ta có vẻ thành kiến về khối cộng sản mà không thấy được tầm
quan trọng trong những học thuyết kinh tế học mà Karl Marx(Các-mác) đã đưa ra.
Nền cộng sinh buộc con người phải chấp nhận quan điểm mà theo kinh điển đạo
Phật nó như là một công thức, cái này phát sinh tạo tiền đề dẫn khởi cho cái
khác phát sinh, cái này bị hoại diệt tạo tiền đề dẫn khởi cho cái khác bị hoại
diệt; và trong hướng cộng sinh, cộng tồn như thế buộc con người cần phải thực thi
trách nhiệm và cam kết quốc tế. Cho dù có xảy ra những xung đột hoặc căng thẳng
thế nào đi nữa thì thông điệp đoàn kết vẫn là điều kiện quan trọng nhất để đạt
kết quả tối ưu cho sự sống còn của thế giới về vấn đề tài chính, thông qua đó
đảm bảo được sự bình ổn về kinh tế.
Hội nghị thượng đỉnh G20 - “Bước
ngoặt” kinh tế
Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Anh
đã kết thúc khá tốt đẹp với kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 1.100 tỉ USD.
Phát biểu tại buổi họp báo sau hội nghị hôm 02-04, Thủ tướng Anh Gordon Brown cho
biết các lãnh đạo G20 đã đạt được một thỏa thuận "mang tính lịch sử"
khi nhất trí lập quỹ cứu trợ kinh tế trị giá 1.100 tỉ USD. Ông nói: "Đây là ngày thế giới cùng sát cánh bên nhau chống
suy thoái toàn cầu, không phải bằng lời nói suông mà là một kế hoạch để phục
hồi cũng như cải cách kinh tế toàn cầu". Nhà lãnh đạo Anh
khẳng định một trật tự thế giới mới đã được hình thành sau hội nghị G20. Về
phía tổng thống Mỹ Barack Obama cũng không giấu được sự vui mừng với những kết
quả đạt được tại hội nghị và gọi đây là "bước ngoặt" cho kinh tế thế giới, ông cho rằng các
quốc gia đã thống nhất một loạt biện pháp không tiền khoáng hậu để phục hồi đà
tăng trưởng và ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tương tự xảy ra thêm lần nữa.
Trên cơ sở giải pháp nào tạo
tiền đề cho sự hồi sinh về kinh tế, các thỏa thuận cam kết mà hội nghị đã thống
nhất đạt được bao gồm:
1. Nhất
trí đóng góp thêm để tăng quỹ cứu trợ các nền kinh tế khó khăn của Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF) và nhiều thể chế tài chính khác lên 1.100 tỉ USD. Khoản tiền khổng
lồ trên bao gồm 500 tỉ USD cho IMF để các nền kinh tế khó khăn có thể vay, 250
tỉ USD trong Quyền rút vốn đặc biệt của IMF, 250 tỉ USD để hỗ trợ các dòng
thương mại toàn cầu và 100 tỉ USD để các ngân hàng phát triển quốc tế cho các
nước nghèo nhất vay mượn.
2. Cam kết nỗ lực xử lý các bảng cân đối tài sản phần nhiều
đã vơi đi của hệ thống ngân hàng và khơi thông nguồn tín dụng. Lên danh sách
đen và trừng phạt những "thiên đường trốn thuế", đặt ra qui định mới
về việc trả lương và tiền thưởng cho các chủ ngân hàng, giám đốc các công ty...
3. Tập
trung vào việc thắt chặt, giám sát, quản lý hệ thống tài chính, các quỹ đầu cơ
đa quốc gia, các nhà đầu tư tài chính nhiều tham vọng tại Mỹ và các nền kinh tế
khác. Họ cũng cam kết chi 5.000 tỉ USD cho nền kinh tế thế giới trong năm nay
và năm tới. Bên cạnh đó, G20 cũng ủng hộ kế hoạch của IMF bán 403 tấn vàng dự
trữ để giúp các nước nghèo nhất thế giới.
Nhìn chung, sau những bất đồng
sâu sắc tưởng như không thể vượt qua, hội nghị G20 đã kết thúc khá suôn sẻ khi
tìm được lời giải cho bài toán về khủng hoảng kinh tế. Ngay cả Tổng thống Pháp
Nicolas Sarkozy, người từng đe dọa rút khỏi hội nghị, cũng thừa nhận những kết
quả trên là vượt ngoài trông đợi. Các lãnh đạo G20 dự kiến sẽ nhóm họp lại vào
tháng 9 tới tại Mỹ để xem xét, đánh giá lại diễn tiến cam kết đó được thực hiện
như thế nào.
Đó là tình hình cứu vãn thị
trường có bàn tay hữu hình của các quốc gia mà nói theo Mác là một điều hết sức
cần thiết và không thể thiếu thì đến bây giờ chủ nghĩa tư bản mới bắt đầu nhìn
và đánh giá lại, dù không thừa nhận một cách công khai đó là các biện pháp giám
sát toàn cầu. Để làm được như thế, họ thống nhất là phải tăng cường sự minh
bạch của thị trường tài chính quốc tế bằng cách quản lý chặt chẽ hơn các ngân
hàng và tổ chức lại hệ thống tài chính toàn cầu. Bởi theo sự phân tích của ông
Robert Zoellick - Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) chỉ các gói kích thích kinh
tế là chưa đủ. Nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) về 122 cuộc khủng hoảng
tài chính và kinh tế cho thấy bước ngoặt sẽ không đến nếu như không dọn dẹp nợ
xấu và tái đầu tư cho các ngân hàng. Ông cũng dự đoán kinh tế thế giới sẽ suy
thoái 1-2% trong năm nay và khó khăn có thể kéo dài sang năm 2010. Nếu không
sớm đối phó với vấn đề ngân hàng, các gói kích thích kinh tế cũng giống như
lượng đường trong máu. Nó bơm năng lượng vào cho hệ thống nhưng sau đó mọi
chuyện sẽ đi xuống nếu như không mở cửa lại thị trường tín dụng.
Ngoài ra, theo ông Pascal Lamy -
tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự đoán, thương mại toàn cầu
cũng sẽ suy giảm 9% trong năm nay. Ông cho biết những lo ngại về xung đột
thương mại mới đã xuất hiện. Trong một bản báo cáo gần đây gửi đến 153 nước
thành viên, WTO lưu ý các nền kinh tế lớn như Mỹ hay EU đang âm thầm thưc hiện
nhiều chính sách bảo hộ thương mại trong nước, trong khi ngoài miệng vẫn hô hào
tự do thương mại. Thế giới đang đối mặt với nhiều mối nguy hiểm khi xuất hiện
ngày càng nhiều hàng rào qui định. Chúng dần dần bóp nghẹt tự do thương mại
quốc tế và làm mất đi tính hiệu quả của các chính sách kích cầu cũng như làm
chậm lại quá trình phục hồi tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Nhóm G20 đã tăng
nguồn vốn vay cho IMF, song vẫn còn nhiều việc phải làm. Nếu tình hình chỉ như
hiện nay, thì G20 sẽ kiểm soát được, nhưng nhìn vào “đám cháy” đang lan ra toàn
cầu trong suốt 5 tháng qua, sẽ thấy là vẫn chưa có đường đi rõ ràng để giải
quyết các thách thức nghiêm trọng. Thực tế, vẫn chưa có sự đồng thuận về cách
thực hiện kích thích kinh tế mà các nước đang thực hiện.
Giới phân tích cho rằng thành
công của hội nghị G20 lần này có thể chỉ là bước tiếp theo chứ chưa phải là
bước kết thúc trong hành trình tìm liều thuốc chữa bệnh cho kinh tế thế giới.
Với những diễn biến kinh tế như hiện nay, nếu làm hết khả năng và đúng phương
pháp luận với sự hợp tác mang tính cách cộng hưởng toàn cầu thì người lạc quan
nhất cũng chỉ dám dự đoán kinh tế thế giới sẽ khởi sắc vào cuối năm nay hoặc
đầu năm 2010. Còn người bi quan thì cảnh báo nguy cơ đại suy thoái có thể kéo
dài 5 năm, hoặc thậm chí 10 năm. Trong bối cảnh như vậy, chủ nghĩa bảo hộ mậu
dịch quay trở lại và chiến tranh thương mại ắt sẽ xảy ra. Đây là viễn cảnh mà
các nước G20 nói riêng và thế giới nói chung chắc chắn không hề mong muốn.
Do đó, tất cả nỗ lực của doanh nghiệp bằng chữ “tâm”, “tiền”,
“tài”, “trí” và “tầm” nếu làm một cách độc lập và
rời rạc thì chắc chắn kết quả sẽ không đi đến đâu. Chính vì thế, mối quan tâm
của toàn cầu là phải cộng tác với nhau theo nguyên lý cái này bị khổ đau dẫn
đến cái khác cũng bị khổ đau trực tiếp hoặc gián tiếp, cái này được hạnh phúc
cũng tạo tiền đề cho cái khác được hạnh phúc. Trên cơ sở đó, giải pháp duyên
khởi của đạo Phật được sử dụng một cách ngẫu nhiên nhằm tháo gỡ những khủng
hoảng mà toàn thế giới đang nỗ lực hướng về.
Phương pháp xử lý cảm xúc trong Phật giáo
Với bức tranh kinh tế toàn cầu
vừa phác họa, tôi xin chia sẻ hai phương pháp hành trì mà con đường tâm linh
Phật giáo đang rất quan tâm, và nó đóng một vai trò ảnh hưởng tâm linh khá lớn
tại Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc trong vài mươi thế kỷ qua.
1. Phương pháp Tịnh Độ tông
Bằng nghệ thuật thay thế đối
tượng nhận thức của tâm thông qua việc giới thiệu danh hiệu đức Phật A-di-đà,
và danh hiệu này được tiếp cận dưới ba góc độ:
- Góc độ tín ngưỡng: người ta
xem đức Phật A-di-đà có khả năng cứu giúp con người vượt qua nỗi khổ niềm đau
về vật chất và tinh thần ở hiện tại; và sau khi chết, nếu có nguyện vọng tái
sinh về thế giới Cực Lạc -nơi an bình một cách lâu dài mà không còn bất kỳ một
nỗi vướng bận nào về mặt kinh tế, xã hội, đạo đức, chính trị v.v… Tiếp cận
phương pháp Tịnh Độ tông dưới hình thức vừa nêu, giá trị của nó được tạm gọi là
sự “trấn an” giống như liều
thuốc giảm đau và không có tác dụng trị liệu lâu dài.
Bởi theo đức Phật, bản chất của mọi vận hành trong vũ trụ dưới sự khám phá của
Tứ Diệu Đế thông qua hai lớp nhân quả, và nhân quả đó tự nó quyết định vận mệnh
của con người. Không có Thượng Đế như một đấng sáng thế can thiệp vào, không có
vị Thần linh là trung gian trưởng quản các chức nghiệp ngành nghề, và cũng không
có mọi sự rủi ro xảy ra trong cuộc đời. Tất cả đều là sự vận hành khá biện
chứng, lý giải nó được hay không bằng phương pháp luận với tính hệ thống, hoặc
đổ lỗi, xem nó là một điều gì đó chưa thể giải quyết.
- Góc độ nghệ thuật thay thế: bằng cách sử dụng danh hiệu
của đức Phật như một cái “nêm” chèn vào trong đời sống nội tâm của con người.
Con người luôn có những khổ đau về vật chất hoặc tinh thần. Nếu giải quyết được
khổ đau về vật chất thì về mặt tinh thần vẫn còn nguyên hoặc ngược lại. Do đó,
cần giải quyết nó bằng cách cộng hưởng, chú tâm vào đối tượng danh hiệu sẽ giúp
quên đi khổ đau đang diễn ra như một hiện thực. Đây cũng chỉ là phương pháp
giảm đau mang tính chất tạm thời.
- Góc độ biểu tượng và triết lý:
A-di-đà Phật được hiểu là vô lượng quang và vô lượng công đức. Vô lượng quang
không nên hiểu theo ý nghĩa vật lý là ánh sáng tuệ giác của đức Phật soi chiếu
rộng cùng khắp muôn nơi, mà nên hiểu tuệ giác đó được sử dụng một cách không
giới hạn mới có thể giải quyết được nhiều vấn đề và phương pháp luận của nguyên
nhân dẫn tới khủng hoảng. Có như thế, việc giải quyết đó mới được dứt điểm một
cách lâu dài.
Vô lượng thọ không nên hiểu theo
ý nghĩa đơn thuần là tuổi đời không giới hạn, mà đó là sự bền bỉ trong các mục
đích chân chính và chân thành mà chúng ta đầu tư để hướng về. Ta không được
quyền bỏ cuộc nửa chừng mà phải theo đuổi mục đích ấy bằng sự tinh tấn theo con
đường của đạo Phật để đạt được những giá trị cho chính mình và cho cả tha nhân.
2. Phương pháp thiền
Trong Phật giáo có khá nhiều các
phương pháp thiền, ở đây tôi xin giới thiệu về phương pháp thiền quán vô ngã và
vô ngã sở hữu. Bởi vì hiểu biết luôn là gốc rễ của sự thực tập, và tập hiểu
chính là thực tập thiền quán. Thiền quán là cách thức nhìn sâu vào lòng sự
việc.
- Phương pháp quán vô ngã: đặt con người vào cái khả thể
nhận thức bản thân mình là một tổ hợp gồm hai yếu tố cấu thành, đó là vật lý và
tâm lý. Toàn bộ nỗi đau của con người trên cuộc đời này nếu có đều liên hệ đến
yếu tố vật lý, cụ thể là thân thể này và môi trường xung quanh. Toàn bộ những
bất mãn, khủng hoảng, khổ đau về phương diện tinh thần của con người nếu có đều
liên hệ đến tâm. Như vậy, bản chất của khổ đau hoặc là bám trên thân, hoặc là
bám trên tâm
Phương pháp quán vô ngã cho phép
ta không đánh đồng hai tổ hợp vật lý hoặc tâm lý là ta, ví dụ: thân thể này không phải là tôi, tôi không bị lệ
thuộc vào thân thể này. Dòng cảm xúc, ý niệm hóa, nhận thức và tâm tư không
phải là tôi, tôi không bị lệ thuộc vào nó. Như vậy, nó được quan
niệm như thế nào?
Đức Phật dạy, nó được quan niệm
như một tổng thể chức năng đóng vai trò trong một thời gian nhất định nào đó.
Do việc đồng hóa nó là ta, nên nỗi khổ đối với thân thông qua bệnh tật càng làm
cho người ta bị khổ đau lâu dài, cường điệu hóa về nó đến mức nhiều người chịu không
nổi đã phải tự tử mà chết như trường hợp nhà tỷ phú Adolf Merckle của Đức là
một điển hình. Tuyệt vọng, khổ đau, bế tắc, không có lối thoát, ông đã chọn
giải pháp kết liễu đời mình kéo theo bao nỗi khổ đau cho vợ, con, cùng hàng
trăm ngàn nhân viên của ông.
- Phương pháp quán vô ngã sở hữu: trong đó cái tôi được xem
là chức năng và công cụ, đồng thời những gì liên hệ đến cái tôi đó cũng nên xem
là chức năng để phục vụ mà thôi. Nếu ta so sánh điều này với quan điểm của nhà
kinh tế học hiện đại Adam Smith là hoàn toàn thích hợp với nhau. Bởi theo ông:
“Không có tài sản vĩnh hằng, chỉ có sự
quản trị giỏi được sử dụng như là phương thức và công cụ để làm chủ sở hữu tài
sản trong một không gian và thời gian tương đối”.
Hiểu được điều đó cùng với toàn
thể phương pháp luận dẫn đến phước quả thông qua việc làm ăn chân chính, để có
thể giữ sở hữu tài sản đó một cách lâu dài, không bị lún lút sâu trong nỗi khổ
niềm đau. Thực tế, phương pháp quán vô ngã sở hữu là một giải pháp giúp con
người không tiếc nuối về những gì đã mất, vì nó là một hiện thực. Ngược lại,
cho dù con người có tiếc nuối, có rơi lệ thì thực tế nó vẫn là không. Thay vì
để cho dòng nước mắt tuôn trào, chúng ta hãy dùng đôi tay, đôi chân của mình
bằng trí tuệ, bằng phương pháp, bằng niềm tin, bằng sức mạnh đứng dậy để làm
lại từ đầu.
3. Phương pháp thực tế của cư sĩ Cấp-cô-độc
Một câu chuyện được xem là bài
học kinh nghiệm để giải quyết khổ đau có thể ứng dụng trong cuộc sống thực tiễn
của chúng ta ngày nay. Trong thời đại của đức Phật, có một cư sĩ nổi tiếng đồng
thời cũng là nhà đại tỷ phú của Ấn Độ lúc bấy giờ tên là Tu-đạt, và người ta
quen gọi ông là Cấp-cô-độc. Ông là một thương gia rất giàu có, hầu như 75% lợi
nhuận thu được từ việc làm ăn buôn bán của ông đều đóng góp cho các hoạt động
từ thiện. Thế rồi có một giai đoạn khủng hoảng kinh tế xảy ra tại Ấn Độ gây ảnh
hưởng trực tiếp đến việc làm ăn của ông. Lúc đó, ông bị thua lỗ, thất bại gần
như khánh tận hết của cải và tài sản.
Nhiều người thấy thế đã chế giễu
ông: “Ông Cấp-cô-độc à, ông cúng cho đức
Phật, giúp cho giáo hội và các nhà hoạt động đạo đức làm chi, bởi vì nhân quả
không hề có. Nếu nhân quả thực sự có thật thì sao ông lại phải ra nông nổi tồi
tệ như thế này!” Trước những lời lẽ trên, chẳng những không làm ông
chán nản, bỏ cuộc, mà ngược lại càng làm cho ông thêm tin sâu vào nhân quả; xem
nó như một hiện tượng của đường siêng lên và xuống. Khi bị chìm xuống dưới đáy
thì chắc chắn sẽ có một cơ hội để vực dậy.
Với niềm tin vô thường của đạo
lý Phật giáo gợi mở cho ông lối suy nghĩ về một hướng tích cực, mà trong kinh
điển ngài Long Thọ Bồ-tát cũng từng nói:“Dĩ
hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành”, tức là do vì nguyên
lý vô thường, tính duyên khởi và tính cách không thực thể mà tất cả mọi sự
thành tựu trong cuộc đời này được thành tựu trên cơ sở nỗ lực chân chính và
nguyện ước chân thành của mỗi con người. Từ đó, ông đã nỗ lực gầy dựng lại từ
hai bàn tay trắng. Kết quả sau thời gian ba năm, việc buôn bán của ông thịnh
vượng và phát đạt trở lại gấp hai lần so với thời ông là tỷ phú.
Chúng tôi cũng tin chắc rằng các
nhà doanh nghiệp trên toàn thế giới và nhất là Việt Nam với chữ “tâm” trong doanh nghiệp, “tầm” và “trí” trong nhận thức và phương
pháp luận, với sự cộng sinh để cùng hợp tác đứng dậy và đi lên. Trong một thời
gian ngắn có thể là một năm hoặc một năm rưỡi, chắc chắn quý vị có thể phục hồi
lại, rũ bỏ được nỗi khổ niềm đau và xem nó như là một thách đố cần phải trải
qua trong cuộc đời.