Thể loại sách khác
Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu Qua Cái Nhìn Phật Giáo
Thích Nhật Từ Nhà Xuất Bản Hải Phòng
16/09/2554 03:53 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

Chương 5. Pháp đàm văn hóa doanh nghiệp và từ thiện

 

 

Người lãnh đạo doanh nghiệp nên học hỏi điều gì từ nền văn hóa Phật giáo để ứng dụng trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp trong công ty của mình?

Mọinỗ lực chân chính giúp thiết lập văn hóa doanh nghiệp là điều đáng khích lệ. Bởi nó tạo ra giá trị tinh thần bên cạnh giá trị lợi nhuận về phương diện vật chất mà doanh nghiệp có thể đạt được từ khoản đầu tư chân chính, đồng thời phù hợp với luật pháp và đạo đức. Để hoạt động này được đánh giá ở mức độ đúng, có giá trị và lợi ích cho cộng đồng và xã hội, theo tinh thần của nền văn hóa Phật giáo, cần áp dụng một số tiêu chí sau:

1. Trong nỗ lực gầy dựng thương hiệu, nhà doanh nghiệp Phật tử cần xác định rõ mục đích là để phục vụ con người, tạo cho xã hội dòng sản phẩm chất lượng cao, có uy tín và không gây tác hại xấu về phương diện sức khỏe, con người, môi trường v.v…Thực hiện được như thế, doanh nghiệp sẽ có một thương hiệu đứng vững trên thương trường; đồng thời, chất lượng sản phẩm được người tiêu dùng tín nhiệm và sử dụng. Hơn một năm qua, hiện tượng một số thương hiệu sản phẩm Trung Quốc đã gây nhiều tai tiếng, bị người tiêu dùng tẩy chay tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam là một minh chứng không thể phủ nhận; doanh nghiệp phải điêu đứng và đi đến phá sản vì thương hiệu sản phẩm của họ không còn được xã hội thừa nhận. Do đó, thương hiệu chân chính phải đặt trên nền tảng của văn hóa doanh nghiệp vốn gắn liền với đời sống đạo đức trong lĩnh vực đầu tư và phát triển kinh tế.

2. Uy tín là thước đo và đồng thời cũng là thang giá trị vô cùng quan trọng để các doanh nghiệp nương theo trong mọi biến cố cuộc đời; thăng-trầm, giàu-nghèo, thành công-thất bại vốn luôn là nỗi ám ảnh đối với phần lớn các doanh nghiệp. Nếu để ám ảnh đó khống chế quá nhiều, người lãnh đạo doanh nghiệp có khuynh hướng đề ra những chỉ thị, kế hoạch hay quyết định sai lầm, đi ngược lại với đường lối và chính sách phát triển của công ty. Từ đó, gây phương hại đến sức khỏe và quyền lợi của khách hàng, uy tín doanh nghiệp cũng dần dà bị giảm sút. Về sau, cho dù doanh nghiệp đó có nỗ lực phục hồi hoặc gầy dựng lại uy tín thương hiệu thế nào đi chăng nữa, chưa chắc đã được quần chúng chấp nhận và tín nhiệm. Do đó, cần tâm niệm rằng “Một lần bất tín thì vạn lần bất tín”, chỉ cần mất uy tín một lần, về sau khó mà gầy dựng lại. Người lãnh đạo doanh nghiệp nên lấy đó làm bài học quan trọng, nỗ lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong tình huống khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu; có thể đôi lúc ta đề ra chính sách một đường nhưng lại thực hiện một nẻo.

3. Doanh nghiệp cần xây dựng và nâng cấp hệ thống quản lý doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh theo các chuẩn mực quốc tế như tiêu chuẩn quản lý doanh nghiệp ISO 9002, tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm quốc tế ISO 9001 v.v… thể hiện được tính chuyên nghiệp, hiện đại hóa, tiếp cận và hội nhập khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, tạo ra dòng sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng cung cầu thị trường trên nền tảng thỏa mãn tâm lý người tiêu dùng. Chỉ với những nỗ lực mang tính cách đồng bộ, có chính sách và chiến lược phát triển lâu dài như thế thì doanh nghiệp chắc chắn sẽ có chỗ đứng trên thương trường trong nước và quốc tế.

4. Doanh nghiệp dù là Phật tử hay không cần có niềm tin sâu sắc về nhân quả dựa trên hai góc độ: nhân quả luật pháp và nhân quả thực tế. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân có hành vi tham nhũng, làm ăn bất chính, có ô dù bao che, qua mặt được luật pháp trong khoảng thời gian dài như trường hợp “vua lừa” tỷ phú Madoff là một điển hình nhưng cuối cùng cũng bị phanh phui và đưa ra ánh sáng. Tin sâu nhân quả là điều kiện giúp thiết lập nền văn hóa doanh nghiệp trên nền tảng của đạo đức, tuy chậm mà chắc và không để lại những tiếc nuối, lo âu, sợ hãi, buồn phiền bởi bất kỳ một sự trừng phạt nào. Ngay cả trong tình huống doanh nghiệp đó có thể qua mặt được nhân quả luật pháp đi chăng nữa, cũng không thể qua mặt được nhân quả của tự thân trong mối vận hành mà không ai có thể can thiệp vào. Nhân quả chính là cán cân công lý rất công bằng, và quy luật đào thải về mặt đạo đức cũng không kém phần nghiêm khắc. Chúng ta có thể lừa dối chính mình, hàng triệu người hay hàng trăm quốc gia, nhưng không thể lừa dối được nhân quả, có chiến thắng bằng sự lừa dối với luật pháp, vẫn phải đối đầu với qui luật nhân quả không ở mặt này cũng ở mặt khác. Do đó, doanh nghiệp Phật tử ảnh hưởng từ nền văn hóa đạo đức và tâm linh Phật giáo cần xây dựng thương hiệu của mình bằng nỗ lực chân chính có yếu tố bền vững. Có như thế, doanh nghiệp sẽ đạt danh thơm tiếng tốt cùng phần thưởng tương xứng từ sự đầu tư chân chính tạo ra.

Trước đây, tôi là một doanh nghiệp khá thành đạt, thường xuyên tham gia công tác từ thiện xã hội, giúp đỡ người thân và bạn bè. Vào năm 2008 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, công ty tôi làm ăn thất bại và tuyên bố phá sản. Từ thời điểm đó đến nay, tôi mặc cảm không dám gặp mọi người, và những người được tôi giúp đỡ ngày trước, họ cũng có thái độ né tránh tôi. Vậy tôi phải làm thế nào để vượt qua xúc cảm về mặt tâm lý, để có thể trở lại một đời sống bình thường sau biến cố này?

Đây là một tình huống cần được sự cảm thông, quan tâm và chia sẻ của tất cả mọi người; với tư cách là một doanh nghiệp thành đạt, đóng góp nhiều hoạt động từ thiện cho xã hội, nhưng giờ đây trong cơn lốc khủng hoảng bỗng phút chốc trắng tay. Bên cạnh đó, những người từng tiếp nhận sự chia sẻ và giúp đỡ của mình nay phản ứng lại bằng sự ngoảnh mặt làm ngơ. Trước thực tế phủ phàng trên, nhiều người rơi vào trạng thái mặc cảm, bế tắc và khổ đau, hết tiền rồi thì tình nghĩa cũng cất cánh bay xa. Chính điều này đã khiến rất nhiều người mất niềm tin vào nhân quả. Tại sao tôi sống tốt, đạo đức và nhân từ như vậy, thế mà bất hạnh đã ập đến với tôi? Tại sao những người từng được tôi giúp đỡ nay lại có thái độ hết sức phủ phàng và nhẫn tâm đến thế?

Dù trong bất kỳ tình huống nào, đạo Phật dạy con người hãy thực tập một phương pháp quan trọng đó là xử lý cảm xúc. Phương pháp này đặt con người vào trong tình huống dù thành công hay thất bại đều phải làm chủ được dòng cảm xúc của bản thân đối với thời cuộc, và nhất là sự khổ đau do thất bại, thua lỗ trong làm ăn, kinh doanh. Để xử lý được dòng cảm xúc thì điều đầu tiên không nên cường điệu hóa khổ đau và mất mát, mà đức Phật từng dạy rõ trong học thuyết vô ngã và vô ngã sở hữu là hai mấu chốt quan trọng giúp con người vượt qua khổ đau.

Thân thể vật lý mà con người có mặt là nhờ vào tinh cha trứng mẹ, điều kiện vật thực, sinh thái cùng nhiều điều kiện khác kết hợp lại tạo thành. Do đó, sẽ là một sai lầm nếu ta quan niệm rằng thân thể đó là của ta một cách vĩnh hằng. Trên thực tế, nó chỉ đóng vai trò, chức năng trong một khoản thời gian nhất định khi chúng ta có mặt với tư cách là một con người, và cuối cùng ai cũng phải vẫy tay chào với nó trong giờ phút nhắm mắt lìa đời, dù muốn hay không.

Ứng dụng học thuyết vô ngã về phương diện tài sản sở hữu và những gì con người có, không nên cường điệu hóa tính “thường hằng bất biến” của vật chất đối với quyền chủ sở hữu về mặt luật pháp hay thực tế. Ai dám khẳng định rằng đồng tiền, chén cơm manh áo, tài sản mà con người đang có và sở hữu chúng về phương diện luật pháp sẽ là của mình một cách vĩnh hằng? Ngay cả tài sản của những bậc vua chúa cũng thế, có lúc nó thuộc chủ sở hữu của vị vua này, nhưng khi bị lật đổ nó lại thuộc chủ sở hữu của vị vua kế tiếp. Nước Việt Nam từng trải qua 1.000 năm chịu sự đô hộ của Trung Hoa, 100 năm bị Pháp xâm chiếm thuộc địa, và 30 năm nội chiến với Mỹ, nước ta bị mất đi chủ quyền bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, kinh tế, tự do, dân chủ… Ta khổ đau, bế tắc và nghĩ rằng mình bị mất vĩnh viễn, thế nhưng cuối cùng rồi đất nước cũng giành được độc lập, tự do và chủ quyền dân tộc.

Từ học thuyết vô ngã, sự mất mát trên thực tế chỉ mang tính tạm thời, bản chất của tài sản và sự mất mát không được xem đó là vĩnh hằng. Quan niệm trên sẽ giúp con người xử lý được cảm xúc và làm vơi bớt khổ đau. Người có thói quen cường điệu hóa, chỉ một thất bại nho nhỏ họ xem như bị núi sụp lở trên đầu, đến độ không còn đủ sức để chịu đựng, nỗ lực gầy dựng hoặc làm mới lại trong tương lai. Tính cách cường điệu hóa đó càng làm con người bị lún sâu trong khổ đau bên cạnh nỗi mất mát về tài sản, của cải vật chất nếu có. Điều quan trọng là không nên vì sự mất mát tài sản mà mình trở nên bế tắc, tuyệt vọng, từ chối sự sống, kéo theo nỗi khổ niềm đau cho những người thân, người thương, gia đình và xã hội.

Người Phật tử không nên xem sở hữu tài sản là vĩnh hằng. Nó chỉ là công cụ, chức năng, nếu khéo biết quản trị, nó sẽ ở với mình trong một thời gian tương đối bền, hoặc không khéo có người sẽ trắng tay. Tuy nhiên, nếu biết nỗ lực gầy dựng lại một cách có phương pháp thì không những ta có cái mới, mà thậm chí nó còn nhiều và tốt hơn so với cũ. “Còn nước còn tát”, còn sự sống thì ta vẫn phải tiếp tục những cuộc chơi, cuộc phiêu lưu và nỗ lực chân chính để tạo ra cái mới quý giá hơn.

Hãy quan sát hình ảnh cậu bé đang chơi trò xây, đắp và nắn nhiều mô hình bằng cát trên bãi biển, cứ mỗi đợt sóng ập đến thì tất cả những công trình, mô hình mà cậu bé hì hục vừa nắn tạo trong phút chốc bị san lấp hoàn toàn. Thế mà gương mặt cậu bé vẫn tươi cười, bởi cậu ta không quan trọng sở hữu mà mình có, cũng như nỗ lực mà mình vừa tạo dựng trên bãi cát này. Còn phần đông người lớn chúng ta thường tiếc nuối vì bao công sức đổ dồn vào đầu tư kinh doanh, giờ đây như một đợt sóng ập đến trong phút chốc bỗng tan thành mây khói. Do đó, chúng ta không dễ dàng mà vẫy tay chào với nó.

Việc mất mát đã là một hiện thực, phủ định về nó không phải là giải pháp nhưng cuốn lao theo nó lại càng là sự bế tắc lớn hơn. Chính vì thế, thừa nhận tính vô thường trong mất mát cũng chính là cách ta nhận diện được tính vô ngã và vô ngã sở hữu, giúp nỗi đau cùng tất cả mọi thứ nhanh chóng được vượt qua. Với quan niệm trên, mong rằng những ai đang lâm vào tình cảnh tương tự biết cách xử lý cảm xúc một cách khôn ngoan, tiếp tục sống bằng phước báu mà mình gieo trồng trong quá khứ thì chắc chắn sẽ có một tương lai vững chãi, tốt đẹp hơn.

Với vai trò là một nhà lãnh đạo hoặc một nhân viên thành đạt của công ty, người đó dành phần lớn thời gian cho công việc và sự phát triển doanh nghiệp, nên ít có thời gian chăm sóc cho gia đình; chính điều này cũng dẫn đến hệ quả tiêu cực cho mái ấm hạnh phúc gia đình. Như vậy, làm thế nào để cân bằng giữa đời sống gia đình và phát triển sự nghiệp? Làm thế nào để vợ hoặc chồng biết cảm thông và chia sẻ nỗi khó khăn của mình?

Câu hỏi này liên hệ đến nghệ thuật quản trị giữa hai cán cân, một bên là tiền tài, một bên là tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc gia đình. Trên thực tế, bên nào cũng được xem là quan trọng, chỉ cần một sơ suất nhỏ hoặc thiếu kỹ năng về quản trị sẽ dẫn đến tình trạng được bên này lại đánh mất bên kia, hoặc ngược lại khó có thể dung hòa và cân đối cho cả hai. Nhiều doanh nhân, nhân viên ở vị trí chủ chốt, điều hành, quản lý thường dốc hết tâm huyết cho công việc của mình với quan niệm làm hết việc chứ không hết giờ. Tám giờ một ngày không đủ cho họ làm, tăng thêm giờ hoặc thậm chí ôm khối công việc về nhà làm tiếp là giải pháp mang tính thường xuyên. Kết quả là họ đã dâng hiến toàn bộ thời gian, tâm tư, nhiệt huyết, công sức, đóng góp cho công việc, sự nghiệp, tạo ra các khoản lợi nhuận với quan niệm sai lầm rằng, chỉ cần cung cấp đầy đủ nhu cầu về đời sống vật chất, đồng nghĩa với việc mang niềm vui và hạnh phúc cho gia đình.

Từ quan niệm vật chất là hạnh phúc mà rất nhiều người phải đánh mất giá trị của mái ấm gia đình. Vợ(chồng) con sống trong sự cô đơn, tẻ nhạt, buồn chán dẫn đến tình trạng có người phải tìm kiếm mối tình vụng trộm khác để thay thế, hoặc con cái có thể rơi vào tình huống ăn chơi, sa đọa. Chính vì thế, con người cần nhận diện rõ sự khác biệt giữa phương tiện và cứu cánh.

Phương tiện bao gồm tài sản vật chất, tiền bạc, những cái thông qua lao động và nghề nghiệp chân chính tạo ra. Phương tiện vật chất không thể đánh đồng và đẳng thức hóa với bản chất hạnh phúc, mà trên thực tế nó chỉ là công cụ.

Cứu cánh là vận dụng giá trị vật chất, khoản lợi nhuận từ doanh nghiệp để phục vụ nhu cầu hạnh phúc cho bản thân và gia đình, nhất là người thân và người thương. Tuy nhiên, những ai biến phương tiện của đời sống vật chất như là cứu cánh của hạnh phúc thì đây là một sai lầm nghiêm trọng cần phải điều chỉnh lại từ cách thức đặt vấn đề cho đến cách nhận thức về nó.

Học thuyết “Hiện pháp lạc trú” của đạo Phật dạy con người hãy thiết lập hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Nhiều doanh nhân trẻ khá thành công trong sự nghiệp nhưng lại không thiết lập được bữa cơm gia đình, hoặc nếu có cũng thường xuyên phải ăn cơm với điện thoại, ăn cơm với công việc. Họ không màng quan tâm đến sự hiện hữu, cảm xúc, khổ đau và nỗi thiếu vắng về tình cảm của người thân, người thương, mà mối bận tâm duy nhất của họ chỉ là công việc và sự nghiệp mà thôi. Dần dần, sự hụt hẫng đó kéo theo những ức chế, trầm cảm, căng thẳng về mặt tâm lý, dẫn đến khủng hoảng về đời sống gia đình là điều khó tránh khỏi. Cho nên, mỗi chúng ta hãy trân quý bữa cơm gia đình bằng cách tắt điện thoại di động, ngắt điện thoại cố định, để có một bữa ăn trọn vẹn, thong thả, chia sẻ các giá trị thân thương với tổ ấm gia đình mình.

Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Tiền có thể giúp con người mua nhà cao cửa rộng, nhưng không thể mua được hạnh phúc của mái ấm gia đình. Tiền có thể mua được những chiếc đồng hồ sang trọng và đắt tiền, nhưng không thể mua được thời gian, giá trị đẹp đã qua rồi thì không thể quay trở lại. Tiền có thể mua được chiếc giường với chăn ấm nệm êm, phương tiện sang trọng và cao cấp, nhưng không thể chu cấp cho con người một giấc ngủ ngon, không mộng mị, khổ đau, ray rứt và phiền não. Tiền có thể mua được hàng tá thuốc men, nhưng không thể mang sức khỏe đến cho con người. Tiền có thể giúp con người được thăng quan tiến chức, có địa vị xã hội, nhưng không thể mua được sự kính nể trong lòng mỗi người nếu ta thiếu nhân cách, thiếu đạo đức và nghệ thuật đối nhân xử thế.”

Ngạn ngữ sâu sắc đó giúp con người nhận diện rõ những giới hạn của đồng tiền, tài sản, của cải vật chất mà con người có được để sử dụng nó một cách khôn ngoan; biết cách biến đồng tiền thành kẻ nô lệ thì sẽ có hạnh phúc, trái lại để đồng tiền điều khiển, làm chủ nhân thì vĩnh viễn mất hết tự do và hạnh phúc. Vì lẽ đó, mỗi người cần biết cách cân bằng, làm chủ quỹ thời gian hợp lý cho công việc và đời sống gia đình, không để bị nó lôi kéo, cuốn hút vào sẽ khó mà thoát ra.

Nhiều người than vãn rằng tôi không có thời gian cần thiết cho gia đình nhưng lại không chịu nỗ lực sắp xếp, quản trị lại. Tất cả mọi vấn đề đều có sẵn giải pháp và hướng đi nếu ta có niềm tin, sự quan tâm và đầu tư đúng mức. Đạo Phật dạy hãy thay thế điều ưu tiên trở thành cái thứ yếu, và không nên quá tuyệt đối vào bất cứ điều gì. Trên tinh thần đó, mỗi người hãy thực tập phương pháp quán chiếu như sau: “Nếu không có tôi, công việc làm ăn này vẫn có thể trôi chảy. Tôi không bị kẹt vào hàng loạt dự án, kế hoạch hay chương trình, vì đã có sự trợ giúp của người cộng sự khác thay thế tôi; và kết quả là kế hoạch, dự án đó vẫn mang lại thành công. Thế nhưng nếu không có tôi mọi thứ trong gia đình này sẽ bị đổ vỡ.”

Đây là phương pháp quán chiếu chấp nhận sự tương đối trong tình huống nếu tự mình quản trị, dấn thân vào tất cả mọi việc thì kết quả có thể đạt tuyệt đối 100%; nhưng nếu chấp nhận cái thứ yếu, giao cho những cộng sự khác thay thế thì phải chấp nhận sự tổn thất có thể từ 10-15%. Như vậy, hiệu quả công việc vẫn đạt được từ 70-80% là kết quả rất tốt. Trong khi đó, ta có thời gian trở về với mái ấm gia đình, trở về với vai trò của một người vợ (chồng), cha (mẹ); bởi nếu không có tôi, hạnh phúc gia đình sẽ đổ vỡ.

Nhiều người có thể dành thời gian tiếp xúc với bạn bè vài giờ đồng hồ mỗi ngày, trao đổi hay bàn việc làm ăn với đối tác kéo dài cả tuần lễ, nhưng để dành thời gian chia sẻ với người thân thì chỉ cần dăm ba câu là đã thấy mệt, buồn ngủ, không muốn bàn tiếp nữa. Từ những chi tiết đó, tình cảm bị chết dần chết mòn, héo hắt theo năm tháng, kéo theo bế tắc và khổ đau. Bởi hạnh phúc trong cảm xúc không còn thỏa mãn nữa sẽ dẫn đến biến cố trong gia đình là hệ quả tất yếu.

Thà ít tiền, giảm bớt sự giàu sang một tí để hạnh phúc được tròn đầy, còn hơn giàu sang phú quý mà hạnh phúc bị khổ đau, bế tắc, và mất hết giá trị cuộc sống. Bởi mục đích của đời sống là hạnh phúc chứ không phải đồng tiền. Đồng tiền chỉ là phương tiện, không phải là cứu cánh trong tự thân của nó. Hiểu được nhu cầu, cảm xúc của người thân, người thương và các mối quan hệ trong gia đình, mỗi chúng ta cần biết dừng lại đúng lúc để cữu vãng tình thế, đừng đợi đến lúc quá muộn. Khi ấy, dù có nỗ lực cách mấy cũng khó mà hàn gắn, bởi cái bát đã mẻ thì khó mà khôi phục lại nguyên vẹn. Là người Phật tử, cần ý thức rõ bên cạnh việc làm giàu thì việc chăm sóc cho hạnh phúc là nhân tố quan trọng giống như không khí để thở, thực phẩm để ăn, áo quần để mặc và trang sức phẩm để làm đẹp con người.

Tôi đang làm việc trong một doanh nghiệp có nhiều thành viên, ở đó có muôn hình vạn trạng về cách ứng xử thiếu văn hóa của con người nơi đấy. Như vậy, tôi có nên nói ra những kinh nghiệm này cho đứa con trẻ đầy nhiệt huyết của tôi biết hay không?

Có hai dạng kinh nghiệm: tích cực và tiêu cực. Kinh nghiệm tích cực thường là những tình huống mà người trải qua sự kiện đó để lại cho ta nhiều bài học có tính giá trị cao, truyền trao kinh nghiệm giúp người khác có một lối đi, tránh tình trạng ngã theo vết xe đỗ của những người đi trước. Bên cạnh đó, kinh nghiệm tiêu cực và việc truyền thông về nó sẽ làm cho thế hệ đi sau, đặc biệt là người thân, người thương trong gia đình mình trở thành một sọt rác, chứa đựng các bế tắc mà trong đó có ta là nạn nhân.

Điều quan trọng hơn hết cần xem lại người mà mình có ý định chia sẻ thuộc trình độ nào, có đủ khả năng xử lý kinh nghiệm tích cực và tiêu cực đó hay không. Nếu câu trả lời là không thì ta không nên truyền bá. Bởi khi nghe được, họ sẽ có thái độ tâm lý bi quan, yếm thế, chán chường, thất vọng, suy sụp tinh thần và thiếu bản lĩnh để vượt qua nếu rơi vào hoàn cảnh tương tự.

Trái lại, nếu người thân trong gia đình mình là người có bản lĩnh thì việc tiếp thu kinh nghiệm sẽ giúp cho người đó có thể vững chãi hơn với bao khó khăn, thử thách trong cuộc sống, như câu danh ngôn“Một lần vấp ngã là một lần đứng dậy vững hơn”. Do đó, ta cần lượng định cái gì nên chia sẻ và cái gì thì không.

Thực tế, nhiều người trong chúng ta ít chú ý đến điều này, bất kỳ một nỗi đau dù lớn hay nhỏ đều đem chia sẻ với người thân, đến độ họ mệt mỏi con tim và khối óc, ăn không ngon và ngủ chẳng được yên. Kinh nghiệm chia sẻ các giá trị tích cực là điều quan trọng và cần thiết hơn là phải nói nhiều về những tiêu cực. Trong trường hợp tiêu cực của một người nào đó đang vấp phải, họ có thể tự tìm ra giải pháp để vượt qua. Truyền trao kinh nghiệm mang tính cách là bước đi, là giải pháp, là cách giải quyết vấn đề vẫn tốt đẹp hơn việc truyền đạt về quá khứ khổ đau của mình hay của người.

Hãy thử hình dung tình huống một đôi vợ chồng nọ, mỗi khi đi làm về, bà vợ cứ cằn nhằn về mối quan hệ xã hội mà bà đang gặp phải. Người này đối phó với người kia, không tìm ra giải pháp, bà cứ lẩn quẩn mãi những bế tắc trong đầu. Trong bữa cơm gia đình và thậm chí ở trên giường ngủ, bà cứ muốn ông chồng phải quan tâm, chia sẻ những điều này; mà trên thực tế ông chồng đã quá mỏi mệt, ngao ngán, và không còn màng đến. Trước tình cảnh đó thì hạnh phúc gia đình sớm muộn gì cũng đi đến đổ vỡ. Vì lẽ ra mối quan tâm giữa họ phải là chuyện trong nhà, chuyện tổ ấm gia đình mình, chứ không phải là chuyện vớ vẫn, chuyện thiên hạ hay chuyện ngoài phố.

Thực tế, có những cặp vợ chồng phải đi tìm “chả” hoặc “nem” ở nhà người khác là do người bạn đời của mình gần như không có được sự quan tâm, chia sẻ, hiểu biết, cảm thông; lúc nào cũng nện vào đầu người thương của mình biết bao lo âu, buồn phiền, bực dọc, căng thẳng… Chính vì thế, đừng biến người thân, người thương của mình thành một sọt rác chứa đựng hết những mối bận tâm, lo lắng và khổ đau của bản thân mình là một sai lầm nghiêm trọng cần nên tránh.

Trên cơ sở đó, hãy truyền trao kinh nghiệm hạnh phúc mà cả hai bên đều là những đối tác đang có mặt như một thực tại. Quan tâm đến niềm hạnh phúc của cả hai có giá trị gấp nhiều lần so với những bận tâm khác không thuộc về mối quan hệ của gia đình. Việc truyền trao phải có nghệ thuật, chia sẻ phải có phương pháp để những giá trị tích cực mới có thể được đảm bảo. Vì vậy, chúng ta nên cân nhắc, chọn lựa kinh nghiệm nào nên chia sẻ với con cái, kinh nghiệm nào không nên và biết dừng lại đúng lúc.

Trong nhiều lần đến hoằng pháp và từ thiện tại trại giam K20 huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre, chúng tôi đều đề nghị các anh chị thanh niên tại đây nên từ bỏ thói quen mỗi khi có dịp rảnh rỗi, cứ tụm năm tụm ba ngồi tâm sự với nhau, kể cho các em nhỏ ở độ tuổi vị thành niên nghe về những hành vi đâm thuê chém mướn, hành động phi đạo đức và mất lương tri của mình. Bởi như vậy, trong suốt quãng thời gian ở tù, chúng cứ phải nghe kể về quá nhiều những kinh nghiệm xấu, tiêu cực thì nguy cơ trở thành một bản sao về hành vi tội ác cao gấp nhiều lần so với những bế tắc mà chúng đang mắc phải. Do đó, chúng tôi luôn gợi ý, hướng dẫn, vun bồi cho các phạm nhân có những dưỡng chất tốt đẹp, giúp họ sau khi mãn hạn tù trở về lại gia đình có sự hồi phục về đạo đức, nhân cách và một tương lai tươi sáng ở phía trước.

Có người cho rằng xây dựng nét văn hóa doanh nghiệp là ẩn chứa điều tâm linh bên trong chính nó. Nhân viên cấp dưới phải thành kính phục tùng triệt để sếp của mình, làm trọn đời và cống hiến trọn vẹn như nét văn hóa ứng xử trong doanh nghiệp của người Nhật, như những con chiên ngoan đạo luôn phục tùng đấng tối thượng. Như vậy, điều này có đi ngược lại với quá trình tự do chọn lựa và sáng lập của mỗi người hay không, và nên chăng xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam theo hình thái này.

Câu trả lời là không, bởi quan niệm phục tùng và thần tượng hóa người mà mình làm việc, cung phụng sẽ dẫn đến tình trạng mê tín con người. Nếu như chủ trương, chính sách của thần tượng ấy sai lầm sẽ kéo theo hàng loạt những sai lầm khác; giống như hình ảnh của người lãnh đạo mù đi phía trước, kéo những người mù là các đối tác và phụng sự trung thành đi theo sau. Một người mù dẫn cả đoàn người mù, kết quả tất cả đều rơi xuống vực sâu mà chết.

Tinh thần đạo Phật dạy“Y pháp bất y nhân”, nghĩa là nương tựa vào giá trị chân lý, cái hay, cái tốt trong cuộc đời và không nên thần tượng, mê tín hóa con người. Bởi điều đó sẽ có nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa thần tượng bị sụp đổ, nếu sau này ta lỡ phát hiện ra điều chưa hoàn thiện ở người mà mình đang gá thân hoặc nương ý tưởng vào.

Các tôn giáo khác thường dạy tâm lý phục tùng để người ta không đặt những vấn nạn mà vốn trong nội dung của Kinh thánh liên hệ nhiều đến khía cạnh mê tín dị đoan, trái với khoa học và không thể giải thích được. Cho nên, họ thường lý giải, biện hộ rằng đặt câu hỏi là khiếm nhã đối với Thượng đế, bất kính với những người đang chăn chiêng, chỉ nên chấp nhận và phục tùng mà thôi. Trái lại, trong nền văn hóa Phật giáo, ai đến và chấp nhận đạo Phật mà không đặt câu hỏi, người đó được xem là mê tín dị đoan, không khoa học. Đức Phật khuyên tất cả mọi người chỉ nên chấp nhận Ngài sau khi hiểu được những gì mà Ngài dạy có lợi ích cho con người trong đời sống hiện tại cũng như trong tương lai. Chỉ với cách thức nhận định như thế thì niềm tin mới được đặt đúng chỗ và có giá trị cao.

Chúng ta hãy thử khảo sát một câu chuyện có thật giữa vị tổng giám đốc một công ty đang phỏng vấn tuyển dụng nhân sự và ba nhân viên vừa mới được tuyển chọn. Công ty ông đang có nhu cầu tuyển dụng nhân sự cho vị trí trợ lý giám đốc. Sau nhiều vòng thi tuyển, 100 người chỉ còn lại 3 người ngang sức ngang tài và thậm chí ngang bằng cả sắc đẹp. Trong vòng loại cuối cùng, ba cô gái được đích thân ngài tổng giám đốc trực tiếp phỏng vấn để chọn ra một người.

- Người thứ nhất bước vào, vị tổng giám đốc rút ra một tờ giấy bạc giả trị giá 500.000 đồng đưa cho cô, bảo rằng hãy đi mua ly cà phê và một gói thuốc lá về cho ông. Cô gái này thầm nghĩ: “Trời ơi, mình mới đến đây để phóng vấn xin việc, chưa gì mà ông ta đã đày đọa mình như thế. Mai mốt khi đã là nhân viên ông ấy rồi, chắc mình suốt ngày bị ông ấy sai vặt. Tốt nhất mình nên nhanh chóng biến khỏi nơi này.” Sau đó, cô giả vờ từ chối và rời khỏi công ty.

- Người thứ hai bước vào, vị tổng giám đốc kia cũng đưa ra yêu cầu tương tự như người trước. Cô gái này gật đầu đồng ý ngay dù phát hiện đó là tờ tiền giả. Khi đi ra ngoài, cô lấy tờ tiền giả ấy bỏ vào túi mình, và đổi lấy tờ tiền thật mua cho ông cà phê và thuốc lá. Khi mang vào, cô cẩn thận gởi số tiền thối lại và nói lời cảm ơn, vì ông đã tạo cơ hội để cô được phụng sự. Điều này đã làm ông tổng giám đốc bị thất vọng hoàn toàn, và dĩ nhiên cô không được chọn.

- Người thứ ba bước vào, nhìn kỹ vào tờ tiền và phát hiện ra đây là tờ tiền giả, phản ứng khôn ngoan, cô nhanh chóng nói với vị tổng giám đốc rằng:“ Sếp ơi, đây là tờ tiền giả. Sếp vui lòng đổi cho em tờ khác, em sẽ đi mua ngay theo yêu cầu của sếp.” Vị tổng giám đốc nói: “Cô hãy xem kỹ lại, đây là tờ tiền thật, làm sao có thể giả được.” Sau khi quan sát kỹ thêm một lần nữa, cô vẫn một mực khẳng định chắc nịch như vậy. Cuối cùng, cô đã được vị tổng giám đốc chúc mừng, chính thức được tuyển chọn vào công ty ông làm việc. Bởi cô đã mạnh dạn dám chỉ r lỗi sơ suất và cái bất toàn của ông.

Đây là câu chuyện dạy con người bài học về thái độ ứng xử và cách thức dùng người. Trong tình huống của người thứ nhất, cho thấy rõ đây là mẫu người ngại khó, ngại khổ “chờ dọn sẵn ổ mà đẻ”, nơi nào không có phương tiện thì họ không dấn thân. Những người như thế nếu được mời về làm việc là rước họa vào thân, “hư bột, hư đường” và hỏng chuyện, hoặc nếu về làm vợ, làm chồng thì họ chỉ như con búp bê được trưng bày trong tủ kính mà thôi.

Mẫu người thứ hai là người chỉ biết chiều chuộng, phục tùng giống như trong tình huống câu hỏi vừa đặt ra, cốt để làm sao cho sếp được hài lòng, nghĩ rằng làm như thế mình sẽ được thăng quan tiến chức về mặt này hay mặt khác. Điều này dẫn đến tình trạng“thượng đội hạ đạp”, người gian xảo, không liêm chính và không đúng đắn. Nếu sử dụng họ, doanh nghiệp đó sẽ bất ổn về sau. Bởi vì điều chưa tốt đẹp vẫn được họ báo cáo láo là tốt đẹp và hoàn thiện, nhưng thực chất nó đã bị đổ nát ngay từ bên trong mà vị tổng giám đốc hay người quản lý chưa nhận ra.

Mẫu người thứ ba có tinh thần phụng sự rất nghiêm túc, có trách nhiệm trước lương tâm, luật pháp, đạo đức về những gì mình được giao, những gì mình sẽ gánh vác, và những gì mình sẽ làm. Thấy rõ được nhiệm vụ để ta làm việc bằng niềm vui, hạnh phúc và sự phụng sự. Bằng không, ta có thể tìm công việc khác, không vì quỵ lụy, danh thơm tiếng tốt hay vai trò vị thế trong xã hội để làm những việc không đúng với lương tâm và tư cách phẩm hạnh của mình.

Nếu là một nhà quản trị giỏi, hẳn nhiên người thứ ba sẽ được nhà tuyển dụng quan tâm tuyển chọn. Nếu là nhà lãnh đạo cần sự tung hô vạn tuế, a dua, khen tặng của mọi người thì nên chọn mẫu người thứ hai. Dĩ nhiên, việc chọn lựa đó sẽ dẫn đến tình trạng giữa chủ và nhân viên đều là người sống không chân thật, và hậu quả đi đến sự sụp đổ doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi.

Do đó, nhà doanh nghiệp nên cân nhắc kỹ trong vấn đề chọn lựa nhân sự. Ai có trách nhiệm, uy tín cao trong lĩnh vực nào thì việc đảm nhiệm công việc đó sẽ đạt thành quả cao và tương xứng. Cái gì cũng phải trả bằng cái giá của nó, hãy chịu khó để khỏi phải khó chịu về sau. Đó là công án để tất cả chúng ta cùng suy nghĩ, nỗ lực chịu khó trong giai đoạn hiện tại, để khỏi phải khó chịu về lâu về dài, thậm chí là vài mươi năm sau.

Là lãnh đạo của một doanh nghiệp lớn, có thương hiệu và vị thế nhưng vị lãnh đạo đó không thường làm việc từ thiện, không góp phần vào việc hỗ trợ những người khó khăn và giải quyết các vấn đề, vấn nạn chung của xã hội thì vị lãnh đạo đó sẽ nhận lấy kết quả gì trong đời sống của chính mình ở hiện tại và kiếp sau? Như vậy, đây có phải là mẫu người thành đạt không?

Đây là mẫu người lãnh đạo keo kiệt và bủn xỉn, mà bản chất keo kiệt, bủn xỉn đó đã ăn sâu vào trong tâm và đồng thời tình thương cũng bị đóng bít lại. Nơi nào không có tình thương thì việc tích tụ tài sản, của cải sẽ là một nỗi đau. Nhiều người khi phải chia sẻ sở hữu tài sản cho người thân, người thương cảm giác như họ đang bị đứt từng khúc ruột. Đó là mẫu người tiền bạc hóa hạnh phúc, tiền bạc hóa các mối quan hệ xã hội và hậu quả họ không thể sống được với ai trong sự bế tắc.

Trước nhất, cần nhận diện lợi nhuận không phải là tất cả trong tiến trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chỉ là phương tiện hay công cụ để phục vụ hạnh phúc cho mình và những người xung quanh đang gặp phải khổ đau, bế tắc cần đến bàn tay và tình thương của mình để chia sẻ, vỗ về, nâng đỡ phần nào giúp họ vượt qua.

Mỗi người trong chúng ta hãy thử quán chiếu theo tinh thần Phật dạy, ai có giàu sang cách mấy chăng nữa mỗi ngày cũng chỉ ngủ trên một chiếc giường, dù đó là một đại gia, một bộ trưởng hay một tỷ phú. Cho dù họ có 100 căn nhà, mỗi căn nhà có 100 phòng, mỗi phòng có 3 giường, nhưng không thể đầu giờ ngủ giường A, giữa giờ ngủ giường B, hoặc cuối giờ ngủ giường C. Doanh nhân càng giàu sang chừng nào thì chế độ ăn uống của họ lại kiêng cữ nhiều chừng đó. Người nghèo cố gắng làm sao mỗi ngày có đủ 3 bữa ăn. Ngược lại, người giàu lại phải hạn chế bớt bữa ăn, ăn kiêng cữ để giữ vóc dáng, nhan sắc và sức khỏe.

Không ít những mệnh phụ phu nhân sang trong, bộ trang phục của họ được thiết kế, chế tạo bằng nhiều chất liệu quý giá như kim cương, đá quý, với trị giá có thể lên đến vài trăm ngàn đô la. Họ sống trong sự hưởng thụ xa hoa, lãng phí, bằng cách này hay cách khác; trong khi đó, nhiều mảnh đời bất hạnh khổ đau lại không tìm được sự chia sẻ từ họ. Họ có thể có đến vài trăm bộ trang phục và mỗi bộ chỉ mặc một lần rồi vứt bỏ; trong khi biết bao người nghèo khổ chỉ một mơ ước giản đơn mong có chiếc áo ấm cho mùa đông giá lạnh vẫn không là hiện thực, thậm chí đãcó người phải chết cóng trong những đêm bão tuyết hoành hành mà không tìm được sự cứu giúp kịp thời từ những tấm lòng.

Tất cả sự hưởng thụ xa hoa đó, dù nó là đồng tiền do chính mình tạo ra nhưng đây là sự hao tổn phước báu rất lớn. Nếu doanh nghiệp là Phật tử nên chú ý kiểm lại phước báu của mình, để giữ cho phước báu ấy không bị tổn thất. Đừng nghĩ rằng chỉ tiêu xài đồng tiền do chính mình tạo ra là không bị mất phước, bởi trên thực tế tính giá trị sử dụng của nó không cao và không thích hợp.

Khi đầu tư phước báu vào tài khoản ngân hàng công đức, nó sẽ còn mãi với con người. Phước báu đó có thể trổ quả nhanh hay chậm tùy thuộc vào tính điều kiện của nhân duyên, nhưng chắc chắn không hề bị mất đi, giống như trong tình huống gởi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, chắc chắn ta sẽ hưởng được lãi suất. Nếu ta đầu tư nhiều mà chưa hưởng được phước báu thì theo thời gian phần lãi và vốn đó chắc chắn sẽ tăng dần. Đây là điều được khẳng định chắc nịch mà người Phật tử cần phải tin.

Bởi có người than vãn rằng tại sao tôi làm quá nhiều việc thiện mà chẳng thấy phước báu gì cả, nhưng trên thực tế nó vẫn còn nguyên. Trái lại, người gieo công đức vào buổi sáng mà trổ quả ngay vào buổi chiều thì theo qui luật bù trừ của nhân quả, phước báu đó sẽ bị hết. Ngân hàng công đức là người bạn đồng hành, hộ pháp và vệ sĩ bảo hộ cho con người trước những cơn tai biến và khổ đau trong cuộc đời.

Công tác từ thiện xã hội thể hiện qua các hoạt động nhường cơm sẻ áo, lá lành đùm lá rách, người lá rách ít đùm lá rách nhiều, người lá rách vừa đùm lá rách tả tơi luôn mang lại các giá trị nhân đạo. Mỗi chuyến đi từ thiện như thế, nhìn thấy ánh mắt, nụ cười rạng ngời hạnh phúc của những người được tiếp nhận phần quà chẳng đáng là bao, lòng mình cảm thấy thật sung sướng và hạnh phúc vô cùng. Chính vì vậy, trong công tác từ thiện, Phật giáo luôn khích lệ ngoài việc đóng góp vật chất tiền bạc, mọi người nên sắp xếp thời gian để có mặt trong những chuyến đi.

Một doanh nghiệp có thể bỏ ra khoản tiền lớn để ủng hộ từ thiện, nhưng nếu không có mặt thì làm sao có thể hỗ trợ người khác về mặt tinh thần, cảm thông, chia sẻ, khích lệ, động viên giúp họ khắc phục khó khăn và phấn đấu vươn lên. Hoặc không ít người ủng hộ từ thiện với thái độ tâm lý cho để rãnh nợ, cho để khỏi bị người khác đến kêu gọi, quấy nhiễu, làm phiền và mất thời gian. Làm như thế, việc từ thiện sẽ không mang lại giá trị và ý nghĩa xã hội, đồng thời công đức và phước báu của mình cũng bị giảm đi phần nào, không trọn vẹn.

Trong cơn lốc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, một số người do vì bế tắc, không tìm ra lối thoát, họ đã chọn giải pháp tự tử. Đây là một nỗi đau mà sự quan tâm, chia sẻ, động viên, giúp đỡ của chúng ta là điều rất quan trọng và cần thiết. Có những tình huống chậm trễ trong sự giúp đỡ đồng nghĩa với việc kéo theo cái chết, bệnh tật, bất hạnh và khổ đau.

Vào ngày 05.01.2009, một sự kiện đau lòng được các phương tiện truyền thông đại chúng trên khắp thế giới đưa tin, đó là nhà tỷ phú Adolf Merckle 74 tuổi, đứng thứ 94 trong danh sách những người giàu nhất thế giới và là người giàu thứ 5 tại Đức đã tự kết liễu đời mình bằng cách lao người vào đoàn tàu hỏa đang chạy với thi thể bị nghiền nát. Merckle đã dành cả cuộc đời mình để xây dựng một “đế chế” kinh doanh với khoảng 100.000 nhân viên và doanh thu hàng năm lên đến 30 tỷ euro (40, 45 tỷ USD). Trong “cơn bão” tài chính toàn cầu khiến các công ty của ông liên tục bị thua lỗ, ông đã mắc nợ các ngân hàng lên tới 6,75 tỉ USD. Tuyệt vọng, đối diện trước nỗi khổ niềm đau, ông đã chọn lấy cái chết kéo theo biết bao khổ đau cho những người thân, người thương và cho cả số lượng 100.000 nhân viên của ông nữa.

Chính vì thế, mỗi chúng ta cần gieo tạo công đức và phước báu thật nhiều. Để đối diện trước khổ đau, không cường điệu hóa nó, và bằng nỗ lực chân chính tìm giải pháp vượt qua khó khăn. Khi ấy, sử dụng nguồn công đức từ ngân hàng công đức mà mình đã gieo tạo thì dù các biến cố có xảy ra, ta vẫn có thể gượng dậy và vượt qua. Bằng không, người ta sẽ chọn cách thức giải quyết vấn đề trong sự bế tắc và nhẫn tâm với chính bản thân mình, biến mình và bao nhiêu người khác trở thành nạn nhân là một kết thúc hết sức bi đát và khổ đau.

Thực hiện việc từ thiện là hành động cho đi và không mong nhận lại. Thế nhưng thực tế không ít doanh nghiệp làm từ thiện nhưng lại kèm theo điều kiện quảng cáo cho thương hiệu của công ty mình. Như vậy, việc từ thiện đó được hiểu như thế nào?

Những ai xây dựng hình ảnh công ty và tên tuổi của mình trên nền tảng bất hạnh, khổ đau của kẻ khác là một điều sai lầm và không có yếu tố vững bền. Hành động lợi lạc thông qua các hoạt động từ thiện là điều đáng tán thán, nhưng bên cạnh đó, cái tâm của người đầu tư vào đang nghĩ đến một khoản lời, đó là sự danh tiếng; thay vì họ phải chi một khoản tiền không nhỏ cho các chiến lược quảng cáo tên tuổi của công ty trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Ngày nay, phần lớn các công ty đều có xu hướng làm từ thiện để đánh bóng hình ảnh và tên tuổi của mình trên các phương tiện báo đài, bởi khoản kinh phí phù hợp, vừa hiệu quả lại vừa được tán dương.

Nếu không nhìn vấn đề một cách quá nghiêm khắc thì dù sao đi nữa đây vẫn là hoạt động“Tự tha lưỡng lợi”. Đứng từ góc độ chúng ta là người chủ doanh nghiệp thì việc đưa thông tin trên các phương tiện truyền thông là tốt; bởi việc thiện cần được công khai hóa và xã hội hóa để mọi người cùng bắt chước làm theo. Tuy nhiên, giả sử nếu hoạt động từ thiện mà cơ quan, đơn vị mình tham gia không được đưa tin vì một lý do nào đó thì ta cũng không nên vì thế mà bất mãn, hoặc rút lại các khoản đầu tư. Bởi ta đã xác định rõ mình làm không phải vì tên tuổi, mà nhằm mục đích mang lợi lạc đến cho mọi người, những người đang cần đến nhu cầu trợ giúp này.

Có một câu chuyện liên hệ đến việc làm từ thiện để quảng cáo. Có lẽ trong chúng ta ai cũng biết đến ngôi sao nhạc pop nổi tiếng thế giới Elton John. Nam danh ca này đã nhận lời mời tham gia chiến dịch quảng cáo cho một loại son môi của công ty mỹ phẩm Viva Glam thuộc tập đoàn MAC nhằm mục đích gây quỹ từ thiện cho những người mắc căn bệnh thế kỷ AIDS. Một số fan hâm mộ khi biết tin đã đùa rằng, có thể mỗi ngày trong tuần, chàng Elton sẽ biểu diễn một màu son. Tuy nhiên, nam danh ca này không đơn độc trên con đường thực hiện sứ mệnh của một công dân gương mẫu, anh đã cùng thủ lĩnh nhóm Garbage Shirley Manson và nữ hoàng nhạc soul Mary J Blige thực hiện công việc của những người hùng trong xã hội.

Từ năm 1994 đến nay, công ty mỹ phẩm Viva Glam thuộc tập đoàn MAC đã gây quỹ 16 triệu bảng Anh để chữa trị cho những người bị nhiễm HIV. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa và giá trị cao đẹp, mà theo nam danh ca Elton John khẳng định: “Quỹ từ thiện MAC có niềm tin vững vàng giống như tôi, rằng những nạn nhân của căn bệnh nan y xứng đáng được chữa trị nghiêm túc, hưởng cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ và chan chứa tình yêu thương”. Câu chuyện trên là một bài học để chúng ta cùng chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm, làm thế nào trong việc làm từ thiện không bị vướng vào cái tôi của danh, cái tôi của trục lợi, mà thực chất là việc chia sẻ khổ đau bằng hành động thiết thực. Do đó, ta không nên có cái nhìn quá nghiêm khắc trong vấn đề này.

Tôi vừa tổ chức chuyến hành hương chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ-Nepal từ ngày 07.03.2009 đến ngày 21.03.2009, tổng cộng có hơn 100 người tham gia, đi cùng có đoàn làm phim của đài truyền hình VCTV1 gồm một đạo diễn, một biên tập viên và một quay phim. Chúng tôi đã phát tâm và vận động một số nhà doanh nghiệp ủng hộ kinh phí cho đoàn làm phim đài truyền hình thực hiện loạt ký sự về những nẻo đường đức Phật đã đi qua. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một đài truyền hình quốc gia phát sóng về các Phật tích với một thời lượng khá đáng kể, mỗi kỳ phát sóng từ 25-30 phút và được phát trong 6 lần liên tiếp, dự kiến chương trình sẽ bắt đầu ra mắt khán giả vào cuối tháng 04-2009. Kinh phí thực hiện cho chương trình vào khoảng 10.000 USD nhưng giá trị về mặt tâm linh rất thiết thực và có ý nghĩa, bởi lẽ có đến hàng chục triệu người sẽ được xem trên màn ảnh nhỏ.

Ngày nay, hoạt động từ thiện mà không kèm giá trị quảng cáo lại ít có người mạnh dạn làm, nhưng nếu có ai làm vì lý do đó thì ta cũng đừng nên quá khắt khe phê bình, chỉ trích, hãy học hạnh biết tán dương người khác. Theo sự mô tả trong kinh A-di-đà, đức Phật mười phương từng tán dương đức Phật Thích Ca làm được việc khó làm, thành đạo và truyền trao pháp môn Tịnh độ bằng phương pháp niệm Phật đạt “nhất tâm bất loạn”. Ngược lại, đức Phật Thích Ca lại tán dương đức Phật A-di-đà đã giúp các đệ tử của Ngài có cơ hội học hỏi pháp môn và hành trì. Nói chung, các đức Phật đã tán dương lẫn nhau không phải để các Ngài được danh thơm tiếng tốt mà nhằm mục đích để cho xã hội bắt chước những điều lành, điều tốt cùng thực tập và hành trì. Có như thế, xã hội và con người sẽ giảm bớt khổ đau, cuộc sống thêm phần an vui và hạnh phúc. Nếu điều thiện được đặt song hành với quảng cáo, không nên xem đó là vấn đề quan trọng. Người Phật tử nên thực tập thanh tịnh tâm ý, xem động cơ của việc làm này nhằm mục đích cứu khổ ban vui, chứ không vì danh thơm tiếng tốt.

Con người có số mệnh hay duyên nghiệp gì không, mà tại sao người giỏi lại phải làm thuê, cống hiến và phục vụ hết mình cho những người bình thường, không giỏi và thậm chí có thể gọi là dở. Tại sao có doanh nghiệp làm bất cứ việc gì cũng thành công tốt đẹp. Ngược lại, một số doanh nghiệp luôn gặp trắc trở và khó khăn, không thể thành công như ý muốn. Như vậy, theo quan điểm Phật giáo lý giải điều này như thế nào?

Vấn đề này liên hệ đến rất nhiều yếu tố, về mặt ngân quỹ phước báu của mỗi doanh nghiệp với tư cách là nhà đầu tư vốn khác nhau hoàn toàn, không ai giống ai, mà theo quan niệm dân gian thường lý giải đó là sự khác biệt của số phận hay định mệnh được an bày, cho dù có nỗ lực phấn đấu cách mấy cũng không thể vượt qua. Đây là một nhận thức hết sức sai lầm, bởi bản chất khác biệt của ngân quỹ công đức trong tự thân mỗi người chỉ là chất xúc tác mang tính tương đối, để có thể thành công hơn những người có phước báu khác.

Trong đạo Phật, nhân quả hiện tại đóng vai trò quan trọng hơn so với nhân quả trong quá khứ. Quá khứ chỉ là một cái đà, hiện tại là cả một lực đẩy, và là cả một tiến trình của sự đi. Cho nên, đầu tư có phương pháp dựa trên nền tảng hiểu biết nhân quả trong nền kinh tế thị trường: tổng cung cầu có thích ứng hay không? Đầu tư dòng sản phẩm ra thị trường có đúng thời điểm hay không? Chất lượng sản phẩm có thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu của khách hàng để tạo uy tín vững bền cho thương hiệu hay không? Địa điểm hoạt động, giao dịch của công ty có thuận tiện và phù hợp hay không? Chiến lược marketing cho thương hiệu và sản phẩm ra sao để tiếp cận người tiêu dùng? Và hàng loạt những câu hỏi khác được đặt ra. Tất cả những yếu tố trên đều tạo sự khác biệt trong thành công hay thất bại đối với một doanh nghiệp.

Trong tình huống một doanh nghiệp thành công trong giai đoạn đầu, bão hòa trong giai đoạn tiến triển và suy thoái trong giai đoạn về sau, nên đặt lại vấn đề và giải quyết nó dưới góc độ của nhân quả. Không nên bằng niềm tin mê tín sai lầm về bất kỳ một nhân vật tôn giáo nào vốn có thể ban phước, cứu vớt ta như tình huống bà Chúa xứ núi Sam, Mẹ Maria, Mẹ sanh mẹ độ, Thổ Địa hay vị Thần Tài nào. Trong sự thua lỗ, không tăng trưởng trong đầu tư, cần đặt lại vấn đề nhân quả, đâu là nguyên nhân chính, đâu là hỗ trợ duyên, đâu là tác động của môi trường bên ngoài, đâu là những yếu tố quyết định… lúc đó, doanh nghiệp có thể khắc phục một cách nhanh chóng và kịp thời; bởi mỗi sự chậm trễ đồng nghĩa với tổn thất lớn và khó có thể gượng dậy.

Coca Cola và Pepsi là hai tập đoàn nước giải khát lớn nhất của Mỹ và cả thế giới. Tuy đã có thương hiệu và khẳng định chỗ đứng trên toàn cầu trong mấy mươi năm qua, thế mà mỗi năm họ vẫn phải chi một khoản ngân sách khổng lồ dành cho quảng cáo bằng nghệ thuật đánh vào tầm mắt, vào lỗ tai của người tiêu dùng giúp cho thương hiệu, tên tuổi sản phẩm của họ không bị quên lãng và tồn tại mãi trong lòng người tiêu dùng.

Vì lẽ đó, quảng cáo và tiếp thị là một trong những chính sách quan trọng mà doanh nghiệp cần tập trung đầu tư một cách nghiêm túc, bên cạnh yếu tố chất lượng và sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Phước báu, kiến thức về nhân quả kinh tế cùng nhiều hoạt động khác cần được theo dõi thường xuyên và kịp thời, để mỗi khi có những bước ngoặt hoặc biến cố, doanh nghiệp có thể kịp thời tháo gỡ để vượt qua, không đổ lỗi cho số phận. Bởi số phận do chính mình tạo ra bằng quyết định đúng hay sai, bằng phương tiện thuận duyên hay nghịch cảnh mà có.

Một doanh nghiệp thường xuyên làm công tác từ thiện xã hội và được xã hội thừa nhận, nhưng lại quá khắt khe trong chính sách khen thưởng và phúc lợi đối với nhân viên công ty; thậm chí họ có thể mạnh tay cắt trừ lương mỗi khi nhân viên xảy ra sai phạm trong quá trình làm việc. Như vậy, doanh nghiệp đó có thể tồn tại lâu dài về mặt nhân quả được không?

Ở đây có hai tình huống được đặt ra. Thứ nhất, trường hợp người lao động cấp dưới trung thành, tận tụy với tất cả tấm lòng, mang nhiều lợi nhuận cho công ty, nhưng chủ doanh nghiệp lại không quan tâm đúng mức về quyền lợi của họ, điều này sẽ dẫn đến tình trạng bất mãn. Khi trạng thái tâm lý bất mãn diễn ra thì họ khó có thể tồn tại lâu dài với công ty. Mỗi khi có sự mời gọi hấp dẫn hơn từ những công ty khác trong cùng lĩnh vực, ngành nghề, hoặc thậm chí có thể khác lĩnh vực thì chắc chắn họ sẽ rời bỏ công ty này. Ngoài ra, tâm lý của người lao động có khuynh hướng chọn cho mình một môi trường làm việc thoải mái, không bị áp lực dù chế độ lương bổng có thể thấp hơn nhưng họ vẫn vui lòng. Do đó, hà khắc với những người tạo lợi nhuận cho mình không phải là quyết định sáng suốt và đúng đắn, cần phải điều chỉnh lại càng sớm càng tốt.

Thứ hai, về phương diện nhân quả, nhiều người tuy có đóng góp và tạo lợi nhuận cho công ty nhưng lại bị đối xử tệ bạc, không thỏa đáng. Từ đó, họ dần trở thành gián điệp kinh tế cho các đối thủ cạnh tranh khi đã thu thập được các dữ liệu, chính sách, chiến lược, cùng đường lối hoạt động thì nguy cơ sụp đổ của doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi. Đó là lý do trong kinh Thiện Sanh đức Phật từng dạy rõ về những nguyên tắc ứng xử đạo đức trong mối quan hệ giữa người và người, nhất là mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.

Là doanh nghiệp Phật tử, cần lưu tâm và ứng dụng một cách sâu sắc giá trị đạo đức và văn hóa doanh nghiệp, biết quan tâm đến hạnh phúc, niềm vui, cảm xúc của những người làm việc dưới trướng và đối tác của mình. Tồn tại trong thương trường, do vì làm nhiều việc thiện đối với xã hội nên doanh nghiệp đó vẫn không bị suy sụp dù có lối ứng xử quá khắt khe với nhân viên. Nhân quả luôn diễn ra theo qui luật bù trừ, và qui luật này vẫn làm cho họ có thể đứng vững. Tuy nhiên, về mặt tình cảm, cách đối nhân xử thế giữa con người với nhau là thể hiện điều chưa tốt đẹp và hoàn thiện. Do đó, doanh nghiệp cần chú ý điều chỉnh lại mới có thể cứu vãn và giải quyết những vấn đề bế tắc về sau.

Trong nền văn hóa doanh nghiệp, cần cố gắng làm thế nào đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền vững thông qua các chính sách nâng cao chất lượng đời sống của người lao động dưới nhiều hình thái và giai đoạn khác nhau. Trước tiên, cần quan tâm đến những người mang lại lợi nhuận cho mình; kế đến là người thân, người thương, “người dưng nước lã”; và cuối cùng là cho toàn cộng đồng và xã hội. Làm được như thế, giữa doanh nghiệp, người lao động cùng những đối tác trực tiếp và gián tiếp đều có niềm vui chung; từ đó hiệu suất và thành quả lao động cũng theo đó mà gia tăng, phát triển.

Trong vấn đề phát triển xã hội, việc đóng góp từ thiện tạo ra sự cân bằng và lợi ích chung không thể thiếu vai trò đóng góp của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Như vậy, Phật giáo ngày nay có vai trò gì trong quá trình thúc đẩy trách nhiệm xã hội đối với doanh nghiệp?

Từ những năm 1970, luận điểm nổi tiếng của nhà kinh tế học Milton Friedman,“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận của họ” đã chiếm lĩnh trên các diễn đàn tranh luận từ giới khoa học, chính trị đến các tầng lớp doanh nhân. Khái niệm “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” (Corporate Social Responsibility) nhanh chóng trở thành xu hướng của tầng lớp tiến bộ ở các nước phát triển. Sau gần 30 năm qua, quan điểm này tiếp tục phát triển và phổ biến rộng rãi thành một nguyên tắc bắt buộc cho hầu hết các tập đoàn và công ty đa quốc gia. Không những ràng buộc trong phạm trù đạo đức, phần lớn các nguyên tắc này đã được luật hóa, hoặc được công nhận bất thành văn trên sân chơi toàn cầu.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nên được hiểu như thế nào, là mục tiêu, động lực hay chiến lược để công ty phát triển thành công? Trong quá trình gia nhập con thuyền kinh tế thế giới, khái niệm trên sẽ có ảnh hưởng gì đối với các doanh nghiệp Việt Nam?

Trên bình diện lý thuyết, có nhiều tranh cãi xung quanh định nghĩa hoàn chỉnh cho khái niệm này, nhưng tựu trung, “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” có thể được phân loại như sau:

1. Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng.

2. Trách nhiệm về bảo vệ môi trường, hoặc ít nhất không vì lý do kinh tế mà gây hại đến môi sinh.

3. Trách nhiệm với người lao động, ít nhất là đối với các công nhân viên trong hãng xưởng của mình (lương bổng, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ...).

4. Doanh nghiệp nên có trách nhiệm chung với cộng đồng, gần nhất là địa phương, nơi doanh nghiệp hoạt động.

Như vậy, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp liên quan tới nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, từ người tiêu thụ đến các nhà cung cấp nguyên liệu vật liệu tại chỗ, từ công nhân viên cho đến các cổ đông của doanh nghiệp. Tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật và văn hóa của từng nước mà việc thực thi “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” sâu rộng đến đâu. Thông thường nhà kinh doanh nào cũng muốn đạt lợi nhuận cao nhất, nên ít ai muốn phải chi thêm phí tổn làm ảnh hưởng đến doanh thu.

Toàn cầu hóa không chỉ mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp mà còn đặt họ vào một hệ thống giám sát có hệ thống, từ dư luận của một nước thành dư luận chung của toàn thế giới như trường hợp của tập đoàn thể thao khổng lồ Nike. Vào những năm 1990, điều kiện lao động khắc nghiệt tại các nhà máy của Nike ở Đông Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đã bị nhiều tổ chức phi chính phủ và phương tiện truyền thông lên án kịch liệt. Từ đó đã dấy lên phong trào tẩy chay sản phẩm Nike tại các thị trường chính của tập đoàn ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Tuy phong trào tẩy chay không ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, nhưng Nike đã lập tức đưa ra những chương trình xây dựng lại hình ảnh. Hiện tại, bên cạnh vô số những chương trình trách nhiệm xã hội tại thị trường tiêu thụ của Nike ở các nước phát triển và đang phát triển, Nike đã thành lập một hệ thống các tổ chức giám sát độc lập nhằm kiểm tra lao động tại các nhà máy ở vùng châu Á.

Để đảm bảo lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp ý thức rằng không thể phát triển mà phớt lờ trước sức ép của dư luận vốn vừa là khách hàng, công nhân viên hoặc cả các đối tác, chủ đầu tư trong nước lẫn quốc tế. Các nhà quản lý doanh nghiệp quốc tế không những biết cách làm tăng tối đa lợi nhuận cho công ty, mà còn ý thức rất rõ được việc tạo nên những điều kiện để duy trì và phát triển bền vững những lợi ích.

Hoặc phong trào “xanh” vào những năm 1980 là một ví dụ. Xuôi theo áp lực dư luận, vấn đề bảo vệ môi trường trong kinh doanh được đặt lên hàng cốt lõi. Doanh nghiệp không chỉ đốn cây vét rừng để sản xuất và xuất khẩu, mà phải quan tâm đến việc trồng cây gây rừng. Các sản phẩm cạnh tranh trên thị trường càng mang nhiều tiêu chí môi trường như sạch, tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu hay hóa chất sử dụng không được gây độc hại cho người sản xuất, vận chuyển và khách hàng tiêu thụ.

Hơn thế nữa, những điều kiện này đem lại cho họ lợi thế đặc biệt. Một mặt đây là hình thức xây dựng thương hiệu một cách hiệu quả nhất khi sản phẩm của mình có điểm khác biệt nổi bật so với các mặt hàng cùng chủng loại. Mặt khác nó đánh vào tâm lý chung của giới tiêu thụ, khi tận dụng những vấn đề xã hội thành một phương châm cho mặt hàng kinh doanh.

Gần đây là trường hợp sản phẩm muối iốt của Tập đoàn Unilever. Liên kết với Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), Unilever đã cho ra sản phẩm muối iốt tại thị trường Ấn Độ. Không chỉ nhằm mục đích lợi nhuận mà gắn liền với lợi ích sức khỏe, sản phẩm muối của Unilever đã nhanh chóng chiếm lĩnh 35% thị phần muối Ấn Độ, và dự kiến sẽ tăng lên 50%.

Như vậy, từ những ý niệm đạo đức ban đầu dưới sức ép của dư luận trở thành luật, các quy định bất thành văn..., các doanh nhân cũng đã tự nhận ra việc tuân thủ các điều lệ này cũng là cơ hội để gia tăng lợi nhuận. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc hoàn thành trách nhiệm xã hội tạo ra cho doanh nghiệp con đường phát triển bền vững hơn trong tương lai.

Câu hỏi được đặt ra là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam là gì? Trên thực tế các khái niệm về “trách nhiệm xã hội” hay “phụng sự xã hội” vẫn còn khá mới mẻ đối với nước ta, nhưng chắc chắn xu hướng đó đang chuyển động dưới tác động của ba chất xúc tác chính:

1. Tác động từ bên ngoài sau khi nước ta gia nhập WTO và được hưởng quan hệ kinh tế bình thường với Mỹ, gọi là quy chế PNTR, các doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ một số quy tắc kinh doanh có trách nhiệm với xã hội như các doanh nghiệp quy mô trên thế giới.

2. Quá trình chuyển đổi thành phần của nền kinh tế quốc dân xác định một nền tảng cấu trúc kinh tế mới. Sự đa dạng và cụ thể hóa về trách nhiệm khiến các nhà quản lý không thể làm ngơ trước những đòi hỏi từ xã hội. Trách nhiệm của ban giám đốc trước Hội đồng quản trị phải được cụ thể hóa bằng trách nhiệm của công ty với người tiêu dùng, thể hiện qua chất lượng sản phẩm. Đó là con đường duy nhất để các nhà quản lý trụ lại trước sự sàng lọc gắt gao trước hết của các cổ đông, và sau đó là của thị trường.

3. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, tầm quan trọng“trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” chỉ được nhấn mạnh và trở nên cấp thiết khi xây dựng được một cơ chế giám sát đồng bộ kết hợp giữa chính quyền và các lực lượng dân sự trong xã hội, đặc biệt là các hội đoàn thiện nguyện, tổ chức phi chính phủ và các phương tiện truyền thông.

Không phải ngẫu nhiên mà trong thời gian gần đây các vần đề nổi cộm như “vụ nước tương đen”, “làng ung thư”, “các dòng sông chết”, “nước uống đóng chai nhiễm vi sinh”... lại được dư luận khắp nơi đánh động một cách đồng bộ và rộng khắp đến thế. Kết luận ở đây là khi các doanh nghiệp vẫn còn chưa ngộ ra rằng, phát triển bền vững là phương thức tối đa hóa lợi nhuận một cách hiệu quả nhất thì việc xây dựng một cơ chế khuyến khích dư luận đứng ra tự bảo vệ các quyền lợi chính đáng của mình và những biện pháp chế tài hợp lý sẽ là những điều tối cần thiết để hình thành ý thức“trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” ở nước ta.

Vai trò của các nhà tâm linh Phật giáo trong vấn đề thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thể hiện ở hai vấn đề chính:

1. Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, các dự thảo luật đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trong đó, nội dung dự thảo về Luật hoạt động chữ thập đỏ được đưa ra thảo luận tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 17.10.2008 qui định các tổ chức, cá nhân đóng góp tiền, tài sản cho hoạt động cứu trợ nhân đạo sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần tiền đóng góp và đối với tài sản đóng góp.

Dự thảo này là một tín hiệu đáng phấn khởi bởi nó tạo tiền đề, sự ưu đãi và khích lệ cho doanh nghiệp mạnh dạn tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo của xã hội. Vì sự gánh vác của nhà nước bao giờ cũng có những mặt hạn chế nhất định cho dù chế độ an sinh xã hội của các quốc gia tiên tiến trên thế giới có tốt và hoàn thiện thế nào chăng nữa. Việc mời gọi và khích lệ nhiều thành phần xã hội, mà trong đó có các doanh nghiệp cùng tham gia đóng góp cho nhiều lĩnh vực hoạt động như từ thiện, nghiên cứu, giáo dục… là thể hiện tính thiết thực và giá trị cao đẹp. Thực hiện được như thế, tôi tin chắc rằng sự kích cầu tiêu thụ trong nền kinh tế Việt Nam sẽ có mức tăng trưởng cao hơn, xã hội được nhẹ thở, nỗi đau được vơi đi, bế tắc được tháo mở, và hạnh phúc sẽ có mặt tràn đầy.

2. Hỗ trợ, hướng dẫn cho các doanh nghiệp có sự hiểu biết và nhận thức đúng đắn về giá trị của ngân hàng công đức mà họ sẽ đầu tư không chỉ trong kiếp này mà còn ở những kiếp về sau. Giả sử không có đời sau, hoặc nhân quả không có thật thì giá trị nhân bản về mặt đạo đức trong tinh thần tương thân tương ái giữa người và người vẫn là những giá trị cao đẹp mà không gì có thể sánh bằng. Đến một lúc nào đó, doanh nghiệp hiểu rõ tính giá trị của việc làm này thì lúc đó công tác từ thiện xã hội không cần chờ đến sự kêu gọi, khích lệ, mà nó phát xuất từ ý thức và động cơ mãnh liệt -phải làm. Đây cũng là lý do mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam tuy nghèo, khó khăn hơn so với doanh nghiệp quốc tế nhưng đã mạnh dạn tham gia những chương trình đấu giá gây quỹ từ thiện với số tiền lên đến vài chục tỷ đồng mà hiếm khi có những cuộc đấu giá tương tự như thế diễn ra tại Mỹ.

Câu chuyện về nhà tỷ phú, chủ tịch tập đoàn Microsoft, kiêm chủ tịch quỹ Nhân Đạo Bill & Melinda Gates Bill Gates là một minh chứng sống động trong vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thông qua các hoạt động từ thiện nhân đạo. Hiện nay, Bill & Melinda Gates là quỹ từ thiện nhân đạo lớn nhất thế giới, luôn đi đầu trong chiến dịch nâng cao sức khỏe cộng đồng trên quy mô quốc tế; với tổng số tiền thu thập được là 37,6 tỉ USD, trong đó 3,5 tỉ USD là phần đóng góp của nhà tỷ phú Warren Buffet, người đứng đầu công ty Berkshire Hathaway.

Tháng 6-2006, nhà tỷ phú Warren Buffet đã chuyển giao một phần tài sản trị giá khoảng trên 30 tỉ USD của mình vào việc làm từ thiện, trong đó 83% số tiền được đưa vào Quỹ Bill & Melinda Gates. Khoản hiến tặng này được xem là lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Vào thời điểm đó, số tiền được quyên này còn lớn hơn gấp đôi so với số tiền hiện có của quỹ. Sắp tới đây, Warren Buffet dự định sẽ chuyển cho quỹ Bill & Melinda Gates thêm 9.000 cổ phiếu nữa với trị giá 41 tỉ USD. Như vậy, cùng với các khoản lạc quyên và hàng tỉ USD của chính hai vợ chồng Bill Gates, tổng số vốn của quỹ này trong vài năm tới sẽ đạt đến con số khổng lồ là 100 tỉ USD.

Dưới sự ảnh hưởng của bà Melinda, quỹ Bill & Melinda Gates đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong lĩnh vực phòng chống AIDS, bệnh sốt rét... Cả hai vợ chồng đều sẵn sàng chi tiêu toàn bộ số tiền vào việc giúp đỡ những người nghèo khổ không chỉ ở nước Mỹ. Đến nay, quỹ đã chi gần 20 tỉ USD cho nhiều hoạt động từ thiện, nhân đạo tại nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước thuộc thế giới thứ ba, các nước châu Phi nghèo đói, và các nước chậm phát triển. Gần đây, Bill Gates đã chính thức rời khỏi Microsoft để hoàn toàn tập trung cho công việc từ thiện.

“Sống giản đơn luôn đi đôi với chia sẻ”- đó là thông điệp mà Bill Gates, Warren Buffet và nhiều tỷ phú khác đang trải nghiệm. Thay vì phung phí của cải, họ đã dành những số tiền lớn cho hoạt động xã hội và từ thiện. Vì sống giản đơn là cách thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trên thế giới khi (theo số liệu của Liên Hiệp Quốc 1998) 20% dân số thế giới tiêu dùng 86% sản phẩm và dịch vụ trên Trái đất.

Trào lưu“Sống giản đơn” (simple living hay living simply) hiện đang lan rộng ở các nước công nghiệp hóa. Theo khái niệm này, bí quyết của hạnh phúc không phải là sở hữu thật nhiều mà là giảm thiểu nhu cầu và sự ham muốn. Thực tế của lối sống giản đơn mà thế giới đang ứng dụng lại một lần nữa khẳng định Phật giáo là một tôn giáo khoa học, không lỗi thời, và phù hợp với nhân loại. Bởiquan điểm“thiểu dục” và “tri túc”, nghĩa là ít muốn và biết đủ, một triết lý có giá trị sâu sắc từng được đức Phật đề cập rõ trong các bản kinh cách đây hơn 26 thế kỷ.

Với thông điệp mà các nhà tỷ phú trên thế giới muốn chia sẻ như một lời gởi gắm, nhắn nhủ hết sức thiết thực cùng tất cả chúng ta - Hãy dấn thân! Hãy hành động! Chia sẻ nỗi đau và tình thương yêu cùng đồng loại.

Giảng ngày 24/02/2009 -Chùa Giác Ngộ, TP. HCM
Đánh máy: Bích Ngọc