«Sự sống của ta khi cưỡng lại những
nguyên nhân đưa đến cái chết giống như một ngọn đèn cưỡng lại một cơn gió mãnh
liệt»
Bảo hành vương chính luận (Bồ Tát
Long Thọ)
Vị Ban thiền Lạt ma thứ nhất có
viết một bài thơ gồm mười bảy tiết (đoạn) mà nhiều người Tây tạng thường đọc đi
đọc lại để tập trung sự suy tư hằng ngày về cái chết. Tựa bài thơ là: Ước vọng
được giải thoát khỏi những hiểm nguy của Giai đoạn Chuyển tiếp, Người can
trường thoát khỏi sự sợ hãi. Muốn thoát khỏi tình thế hiểm nguy, chẳng hạn như
bị trộm cướp, đạo tặc, hay thú dữ, ta cần có một người hướng dẫn can đảm, thông
minh để bảo vệ ta. Cũng thế, muốn được giải thoát khỏi sự sợ hãi do những ảo
giác hiện ra lúc chết và trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống, ta nên
noi theo những lời khuyên trong bài thơ này, bài thơ sẽ chỉ cho ta những kỹ
thuật cần thiết. Khi nghiền ngẫm về bài thơ, ta sẽ học được phương cách phát
hiện sự sáng suốt giúp ta vượt qua quá trình chuyển tiếp đó. Chết chính là lúc
tâm linh hiển hiện ở mức độ cao siêu nhất. Suy tư hằng ngày cũng có thể phát
hiện được những trạng thái tâm linh như thế.
Bài thơ gồm một chuỗi dài nguyện
ước giúp cho mỗi người đem ra sử dụng khi cái chết xảy ra, trong mục đích giúp
tâm thức ứng phó một cách tích cực hơn. Một số người, trong lúc chết, tìm cách
phát huy năng khiếu tốt lành sẳn có để tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi
hơn. Mục đích của họ là đạt được sự tái sinh tốt đẹp trong kiếp sống sau này để
có thể tiếp tục tu học. Một số khác tìm cách dựa vào các cấp bậc thâm sâu của
tâm linh hiển hiện trong khi chết để vượt lên những thể dạng tâm linh cao thâm
hơn nữa. Những người tu hành thì phát lộ lòng thiết tha phục vụ kẻ khác.
Bài thơ của vị Ban-thiền Lat-ma thứ
nhất đề cập đến ba cấp bậc tu tập khác nhau – những người tu tập cao, những
người đạo hạnh trung bình và những người còn thấp – cả ba cấp bậc tu tập ấy đều
hướng vào sự ước vọng giữ cho tâm thức vững vàng để vượt qua giai đoạn chuyển
tiếp trong khi chết, tức là khoảng thời gian tiềm ẩn giữa kiếp sống này và kiếp
sống tương lai. Bài thơ còn chỉ dẫn chi tiết những gì nên làm trong từng thời
điểm một. Đạt được một mức độ tu tập nào đó trong những ngày còn lại trong kiếp
sống này quả là một điều cần thiết, đến khi chết ta có thể vượt qua những giai
đoạn trung gian hiệu quả hơn.
Khi cái chết bất thần hiện ra, nếu
ta không quen tu tập từ trước, thật khó cho ta ứng phó một cách thuận lợi. Thời
điểm hôm nay là lúc ta nên tu tập để chuẩn bị trước, vì lúc này đây ta đang
hạnh phúc và có nhiều điều kiện thuận lợi. Nếu ta thực hiện được, đến khi cần
đến trong lúc hiểm nguy thật sự, ta sẽ không gặp khó khăn gì cả. Nhưng nếu lúc
ta còn đủ thì giờ để nghe, để suy tư, để nghiền ngẫm và thắc mắc, ta lại không
chịu chuẩn bị cho giây phút hấp hối, đến khi đó mọi sự đã trễ rồi, ta sẽ không
có gì che chở cho ta, chẳng có một điểm nương tựa nào, ta chỉ còn hai mắt để
khóc. Tốt hơn là sớm tập suy tư thường xuyên về quá trình của cái chết trong
giai đoạn trung gian giữa hai kiếp sống – để hình dung mọi biến cố sẽ xảy ra,
giúp ta quen dần với chúng. Quả thật là hệ trọng, lúc này đây ta vẫn còn ngày
giờ để tận dụng những khả năng tốt nhất của ta với mục đích sau này sẽ giúp ta
vượt qua giai đoạn trung gian một cách hiệu quả.
Biết được quá trình của cái chết và
các phương pháp tập luyện chưa đủ: phải thực tập hàng tháng hay hàng năm liền
cho thật quen. Ngày hôm nay khi giác quan còn lanh lẹ, tri thức còn tinh tấn,
nhưng nếu tâm thức chưa quen với con đường đạo hạnh, khi chết ta sẽ gặp nhiều
bỡ ngỡ vì phải phiêu lưu trên những nẽo đường hoàn toàn xa lạ. Khi chết, sức
lực sẽ suy giảm vì bệnh tật, tinh thần sa sút vì lo âu. Bởi thế phải tập luyện
để chuẩn bị cách đối phó trong khi chết. Không có gì thay thế được và cũng
chẳng có phương thuốc nào khác hơn.
Khả năng cần thiết để hiểu được
những điều ấy là tùy nơi quyết tâm của ta, quyết tâm tin rằng những cảm nhận về
hạnh phúc hay đớn đau đều trực tiếp lệ thuộc vào những hành vi đạo hạnh hay tệ
hại của chính ta. Trước hết, cần phải hiểu rõ quá trình của luật nhân quả, hay
nghiệp (karma), tức những hành động tốt phát xuất từ một tâm thức hiền hòa,
những hành động xấu phát xuất từ một tâm thức hổn loạn. Tuy rằng thiện, ác, đều
do thân, khẩu và ý tạo ra nhưng chính tâm thức dẫn đầu. Cội nguồn của sự tu học
Phật giáo là hướng vào việc cải thiện tâm thức. Giáo huấn nhà Phật đòi hỏi ở ta
một tâm thức kỷ cương giúp ta nhận biết chính ta là nguyên nhân đem đến an vui
hay khổ đau cho chính ta. Phật đã từng nói như sau:
Chư Phật không tẩy sạch được những
hành động xấu bằng nước,
Cũng không xóa hết được những khổ
đau do chính tay mình đã tự hoán chuyển cho mình,
Cũng không chuyển những khổ đau đó
sang cho kẻ khác được.
Chúng sinh chỉ có thể tự giải thoát
bằng những lời giáo huấn liên quan đến thực thể và bản chất của vạn vật.
Chính ta là người tự che chở cho
bản thân ta. An vui hay đau buồn nằm trong tay của chính ta.
NHÌN TỔNG QUÁT VỀ BÀI THƠ
Bài thơ của Ban-thiền Lạt-ma gồm
mười bảy tiết, trình bày các kỹ thuật đặc biệt của Phật giáo giúp ta vượt khỏi
sự sợ hãi phát sinh từ cái chết và lợi dụng những chuyển biến của cái chết để
thăng tiến trên mặt tâm linh. Tôi hy vọng việc mô tả các kinh nghiệm và các
giai đoạn biến thể trên mặt vật chất sẽ giúp cho những ai cảm thấy cần hiểu
biết về cái chết và các cấp bậc thâm sâu nhất của tâm linh có thể suy nghiệm
một cách hữu ích. Đó cũng là một nguồn dữ kiện giúp khoa học quan tâm hơn đến
sự hợp tác chung giữa các khoa học gia và những người luyện tập du-già trong
mục đích tìm hiểu về những hiện tượng liên quan đến cái chết. Trong khi phần
đông các học giả cho rằng tâm thức phát khởi từ thân xác, thì một vài chuyên
gia lại hình dung tâm thức là một thực thể riêng biệt có thể ảnh hưởng đến thân
xác. Nếu những xúc động mạnh, chẳng hạn như hận thù, có thể gây ra ảnh hưởng
trên thân xác, thì cũng có những phương cách luyện tập chuyên biệt giúp rèn
luyện tâm thức, chẳng hạn như niềm tin, lòng từ bi, thiền định sâu xa về một
đối tượng, suy tư về Tánh không của vạn vật, hoặc do các phương pháp thiền định
đặc biệt của Ninh-mã phái[3] thuộc Phật giáo Tây tạng. Các kinh nghiệm đó chứng
minh cho thấy sự luyện tập tinh thần đưa đến một chức năng độc lập có thể ảnh
hưởng đến thân xác, đi đến chỗ có thể làm cho thân xác hoàn toàn tự chủ. Tôi
nghĩ rằng tham khảo các y tá trong các nhà dưỡng lão chẳng hạn về những triệu
chứng khi sắp chết có lẽ rất hữu ích.
Bảy tiết đầu trong bài thơ của
Ban-thiền Lạt-ma giúp ta phải chuẩn bị cái chết như thế nào. Tiết một nói về
quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng (tức chương này), hai tiết tiếp theo
(chương 3) đề cập đến việc rèn luyện tâm linh để ý thức được giá trị của sự
sống. Hai chương này chỉ dẫn các phương pháp tốt nhất để suy tư về vô thường
trong hiện tại, tính cách phù du của nó, mục đích giúp ta bớt bám víu quá đáng
vào những những cảm nhận tạm bợ. Hai tiết bốn và năm (chương 4) khuyên ta phải
tự đặt mình trong một phối cảnh như thế nào để có thể chủ động những khổ đau
tột cùng, chẳng hạn như những ảo giác vào giờ phút lâm chung. Hai tiết sáu và
bảy (chương 5) chỉ cho ta biết cách kiểm soát cái chết dựa vào những điều đã tu
tập từ trước, đồng thời vẫn bảo toàn được sự trầm tĩnh. Ba tiết tiếp theo
(chương 6) mô tả chi tiết những biểu hiện trong bốn giai đoạn đầu tiên khi cái
chết xảy ra, cũng như các phương pháp chú tâm phải thực thi trong bốn giai đoạn
ấy. Đoạn này đòi hỏi ta phải hiểu rõ cách tan rã của các thành phần vật chất
cấu tạo ra thân xác, tức cơ sở nương tựa của tri thức và các cảm nhận liên đới
với tri thức. Các cảm nhận này sẽ mở đường đưa đến ba cấp bậc tâm thức tinh tế và
thâm sâu hơn. Các biểu hiện của những cấp bậc tâm thức tinh tế sẽ được mô tả
trong tiết tiếp theo (chương 7). Chương này cũng nói đến cấu trúc giữa tâm thức
và thân xác dựa theo « Tối thượng Du-già Tan-tra » [4]. Các tiết mười hai và
mười ba (chương 8) mô tả phương cách ánh sáng tâm thức trong suốt phát hiện từ
những cảm nhận nội tâm chính yếu và cao độ nhất. Cấp bậc thâm sâu tột cùng đó
của tâm thức làm nền tảng cho toàn thể phần tri thức của sự sống.
Bốn tiết sau cùng (chương 9 và 10)
vừa mô tả trạng thái trung gian (sau khi đã chết hẳn và trước khi tái sinh
trong kiếp sau) vừa chỉ dẫn ta cách phản ứng trước những biến cố thường rất
kinh hãi có thể xảy ra trong giai đoạn này. Dù ta còn đang ở trình độ tu tập
tinh thần nào đi nữa, các tiết này cũng sẽ chỉ rõ cho ta cách thức hướng dẫn sự
tái sinh của ta.
Toàn thể mười bảy tiết giúp người
tu tập chuẩn bị trước, đến khi chết sẽ tránh khỏi các tình huống bất lợi, và
giúp họ biết xử lý giai đoạn trung gian một cách hiệu quả, vì điều này sẽ ảnh
hưởng đến sự tái sinh trong kiếp sau.
MỞ ĐẦU BÀI THƠ: QUY PHỤC VĂN-THÙ
SƯ-LỴ[5]
Trước khi khởi đầu bài thơ, vị
Ban-thiền Lạt-ma bày rỏ sự sùng kính của mình, quy phục Bồ tát Văn-thù Sư-lỵ,
hiện thân cho Trí tuệ của tất cả chư Phật. Tác giả xem Văn-thù Sư-lỵ là thầy
mình. Sự quy phục đối với Văn-thù Sư-lỵ của Ngài là do các lý lẽ sau.
Căn nguyên của một cái chết tốt
lành, một giai đoạn chuyển tiếp thành công, kể cả Phật tính của nhiều kiếp
sống, đều liên hệ đến kết quả tu tập viên mãn về ánh sáng tinh khiết phát sinh
từ cái chết. Có hai phương pháp khác nhau: từ bi và trí tuệ. Thực hiện tu tập
về ánh sáng trong suốt trong khi chết là do trí tuệ phát huy. Trí tuệ được tuần
tự trình bày qua các cấp bậc tu tập về thể dạng thâm sâu phát xuất từ sự đối
chiếu giữa những biểu hiện bên ngoài và Tánh không của sự hiện hữu nội tại –
những lời giảng huấn này do vị thầy tốt của chúng ta là Phật Thích-Ca Mâu-ni
truyền lại qua ngài Văn-thù Sư-lỵ. (Các trình độ giáo huấn khác nhau về lòng
quyết tâm và những hành vi thiết thực khác là do Đức Di-lặc và Quán-Thế-Âm
Bồ-Tát truyền đạt). Một cái chết thanh thản và những thể dạng chuyển tiếp giữa
hai kiếp sống đều nhất thiết liên hệ đến trí tuệ, vì thế ngài Ban-thiền Lạt-ma
đã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Văn-thù Sư-lỵ:
QUY PHỤC VỊ THẦY VĂN-THÙ SƯ-LỴ
Sau khi bày tỏ lòng quy phục của
mình đối với bậc trí tuệ, Ban-thiền Lạt-ma bắt đầu đọc thơ:
Tiết 1
Bản thân tôi và toàn thể không phân
biệt bất cứ sinh linh nào trong không gian, xin qui y chư Phật của quá khứ, của
hiện tại, của tương lai, xin qui y Pháp, xin qui y Tăng,
Cho đến khi nào được hoàn toàn giác
ngộ.
Cho chúng tôi được giải thoát khỏi
sự sợ hãi trong kiếp sống hiện tại, trong giai đoạn chuyển tiếp, và cho cả về
sau.
Người Phật tử noi theo giáo lý của
Phật bằng sự cố gắng của chính mình và nượng tựa nơi Phật như một vị Thầy. Họ
dựa vào giáo lý của Phật (những lời giáo huấn tùy theo các cấp bậc thực hiện)
và đặt niềm tin nơi tập thể những người hướng dẫn tinh thần. Nhập tâm vào những
lời giáo huấn ấy sẽ giúp ta tránh khỏi khổ đau. Người Phật tử xem Tam Bảo
(Phật, Giáo lý của Phật, Tăng đoàn) là nơi nương tựa tột cùng.
Nương tựa trong mục đích làm nhẹ
bớt khổ đau và tránh khỏi luân hồi cho riêng ta sẽ không hội đủ sức mạnh để đặt
được sự an trú tối thượng. Cách nhìn ấy còn quá hạn hẹp. Muốn đạt được Phật
tính phải hướng vào sự an lành của tất cả các sinh linh có giác cảm, giải thoát
cho tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Mục tiêu tiên khởi nhất về sự hiểu biết
toàn năng của Phật tính là giúp đỡ kẻ khác.
Thật cần thiết phải nghĩ đến tất cả
mọi sinh linh trong không gian và phải hướng đến việc tu tập trong mục đích đạt
được Giác ngộ tột cùng và tối thượng, thực hiện những nguyện vọng như thế sẽ
giúp ta vượt xa hơn những người tu tập nhắm vào các mục đích hạn hẹp. Cách tu
tập trên đây đòi hỏi phải loại trừ mọi chướng ngại, không những để giúp ta
thoát khỏi vòng luân hồi, mà còn đưa ta đến sự hiểu biết toàn năng. Sự tỉnh
giác cuối cùng, còn gọi là niết bàn tối thượng, vượt xa hơn hai cực đoan là chu
kỳ sinh, bệnh, tử (samsara), và thể dạng an lạc bất động, các thể dạng hạn hẹp
ấy chỉ để giúp ta tự giải thoát ra khỏi chu kỳ của khổ đau, nhưng thiếu hẳn khả
năng giúp đỡ kẻ khác.
Ngài Ban-thiền Lạt-ma thứ Nhất
khuyên ta nên nương tựa vào Phật, vào giáo lý của Phật và Tăng đoàn để đạt đến
Giác ngộ tột đỉnh trong mục đích đem đến sự an lạc cho tất cả chúng sinh. Điều
này gọi là sự nương tựa vào nguyên nhân: ta quy y nơi Tam Bảo đang hiện hữu
trong chính tâm linh của kẻ khác – quyết tâm làm chấm dứt mọi khổ đau và phát
huy những thể dạng tinh thần chế ngự những khổ đau đó. Khẩn cầu những người đã
đạt được Tam Bảo là khơi động lòng từ bi của họ, lòng từ bi đó ta không đặt trở
lại trong lòng họ mà chính để mở rộng lòng ta.
Hướng vào sự nương tựa nguyên nhân
chính là noi theo cách tu tập Đạo Pháp do chính vị Thầy là Đức Phật thuyết
giảng. Ngài xem Tăng đoàn là khuôn mẫu cao nhất trong sự thực hiện. Nếu ta chọn
con đường tu tập, sau khi đã vượt qua nhiều cấp bậc trên đường giải thoát khổ
đau, đạt được một trình độ cao, có nghĩa là ta trở nên một thành viên của Tăng
đoàn. Sau đó, trên đường giải thoát khỏi luân hồi mọi chướng ngại sẽ bị loại bỏ
dần dần, và rồi ta sẽ trở thành một vị Phật. Khi đã tự giải thoát khỏi mọi sợ
hãi, ta sẽ đạt được sự hiểu biết toàn năng giúp ta hiểu được bản chất những
người xung quanh và từ đó sẽ tìm được những phương cách thích nghi để giúp họ.
Để giúp thực hiện điều ấy, tiết đầu tiên của bài thơ khuyên ta hãy nên cầu khẩn
lòng từ bi của Tam Bảo.
Quy y là điểm khởi đầu cho mọi việc
tu tập, vì thế bài giảng của Ban-Thiền Lạt-ma đã nhắc đến điều này như một ước
nguyện tiên khởi. Không quy y khó thành công trong sự tu tập. Thái độ hoàn toàn
tin tưởng nơi Tam Bảo cũng chưa đủ. Phật từng nói: «Ta thuyết giảng con đường
Giải Thoát cho các con, nhưng phải hiểu rằng sự giải thoát là do chính nơi các
con». Phật chỉ là người Thầy thuyết giảng, Phật không đem tặng cho ta sự giải
thoát: chính mỗi người trong chúng ta phải tự trau dồi phẩm hạnh, thiền định và
sáng suốt.
Chẳng hạn như câu thần chú Om Mani
Padme Hum[6], mà người ta thường đọc lên để đánh thức lòng từ bi của chính họ
hướng vào tất cả muôn loài sinh vật. Sau khi dứt một loạt niệm chú – hai mươi
mốt, một trăm lẽ tám lần, hay nhiều hơn nữa –, hiệu quả của nó sẽ hiển lộ minh
bạch hơn trong bài tụng niệm tiếp theo đây, hướng đến Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tượng
trưng cụ thể cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Bài tụng niệm như sau:
Nhờ vào đức hạnh tu tập
Tôi ước mong đạt đến trạng thái
Ngang với trạng thái của Quán Thế Âm Bồ Tát
Để giúp đỡ tất cả muôn loài sinh linh đều được ngang hàng như vậy.
Không thể nào đạt được Phật tính
bằng cách chỉ niệm câu Om Mani Padme Hum, nhưng nếu sự tụng niệm đi đôi với
lòng thương người thật sự, ta có thể đạt được Phật tính. Cũng giống như thế,
khi ta thụ giáo, gặp gỡ, hoặc đi nghe một vị thầy giỏi thuyết giảng, sẽ ảnh
hưởng đến ta một cách tích cực và giúp ta đạt được những kinh nghiệm tâm linh
sâu xa hơn. Lúc khai mạc những buổi hội chính thức, người thầy giám hộ lớn tuổi
nhất của tôi là Ling Rinpoché và tôi đều cuối đầu trước mặt nhau đưa trán của
chúng tôi chạm vào nhau, hoặc trong những dịp gặp gỡ khác, tôi cầm lấy tay ông
đặt lên trán tôi, cử chỉ này truyền sang cho tôi một sức mạnh thật sâu kín làm
gia tăng niềm tin tưởng và sự tự tin của tôi. Vào thời Đức Phật, người nào kính
trọng và yêu mến thật sự thì ôm lấy chân của Phật, điều đó mang đến điều lành
cho họ. Nhưng nếu kẻ nào không có một chút tin tưởng hay kính trọng nào thì dù
có ôm lấy chân Phật và đặt trán mình lên chân Phật cũng chẳng có một hiệu quả
nào. Nếu người thầy cho nhiều thì người đồ đệ còn phải cho nhiều hơn nữa.
Có một vị Lạt-ma rất tuyệt diệu
trong tỉnh Amdo, khi có người nào xin ông đặt tay lên đầu để truyền cho mình
điều lành, thì ông vẫn thường nói với họ: «Tôi không phải là một vị Lạt-ma có
thể ban bố sự giải thoát bằng cách đặt bàn tay lên đầu của bất cứ ai, vì bản
chất của bàn tay đã là đau khổ rồi».
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Điểm khởi đầu của việc tu tập là
sự an lành của tất cả mọi sinh linh – tức là sự giải thoát khổ đau cho tất cả
muôn loài để đạt đến sự toàn thiện. Hãy trau dồi chủ đích đó trong trong mục
tiêu giúp đỡ kẻ khác nhiều chừng nào hay chừng ấy.
2- Chư Phật thuyết giảng con đường
tu học, nhưng không đem tặng ta một kết quả sẳn có nào cả. Mỗi ngày, chính ta
phải tự tu tập về đức hạnh, thiền định và nâng cao sự sáng suốt.