«Quên rằng tôi sẽ phải từ bỏ tất cả
và ra đi, tôi đã phạm vào những sai lầm làm hại đến sự tốt lành của bè bạn và
cả kẻ thù của tôi» Phật
Tiết 2
Cho chúng tôi xin rút tỉa thật
nhiều tinh anh từ thân xác đang chống đỡ sự sống này
Không xao lãng bởi những việc vô
ích trong kiếp sống hiện tại.
Chính cơ sở vững chắc đó, tuy khó
đạt được nhưng dễ bị hủy diệt
Sẽ giúp chúng tôi cơ may lựa chọn
giữa ích lợi và mất mát, giữa tiện nghi và bần hàn.
Cần có những hoàn cảnh thuận lợi từ
bên trong và bên ngoài để đem lại thành công trong việc tu tập. Hiện ta đang ở
trong hoàn cảnh thuận lợi đó. Là một con người, ta có sẳn thân xác và đầu óc
giúp ta hiểu được những lời giảng huấn. Đấy chính là những điều kiện bên trong,
những điều kiện ấy thật thiết yếu. Bên ngoài, ta cần có sự hướng dẫn và một
chút tự do để thực hiện. Nếu ta chú tâm một cách nghiêm chỉnh, chắc chắn sẽ có
kết quả. Nếu không chịu khó, quả là một sự lãng phí vô ngần. Cần phải ý thức
giá trị của những điều kiện vừa kể, thiếu những điều kiện ấy sẽ khó cho ta thực
hiện việc tu học. Tốt nhất nên ước tính gia sản sẳn có của ta hôm nay.
Ta có sẳn thân xác của một con người trong một môi trường khá tốt, thêm vào đó
quyết tâm tu tập của ta, thế là điều kiện đã đủ để làm cho cuộc đời ta thêm giá
trị. Quả thật là hệ trọng. Hãy bắt tay vào việc ngay đi! Nếu hướng hành vi của
ta vào những chủ đích xứng đáng, ta sẽ thực hiện được nhiều điều xứng đáng. Nếu
để cho ba thứ nọc độc là ham muốn tình dục, hận thù và sa đọa lôi cuốn, ta sẽ
gặt hái đủ loại hậu quả từ những hành động xấu đưa đến.
Thật khó cho tất cả mọi chúng sinh
biết bước vào con đường ngay thẳng bằng sức mạnh của chính mình, chẳng hạn như
hàng thú vật, chúng thiếu hẳn sự thăng bằng của con người[7]. Tuy nhiên vẫn có
một số trường hợp hiếm hoi thú vật phát động được những hành vi tích cực, nhờ
vào hoàn cảnh thích hợp xui khiến[8]. Nhưng khi cần phải suy nghĩ thì thật là
chuyện phức tạp cho chúng. Khi bị tình dục hay hận thù lôi cuốn, chúng biểu lộ
một cách tạm thời và nông cạn. Chúng không đủ sức tạo ra những hành vi xấu xa
bằng hành động hay bằng lời nói nặng nề và lắc léo. Chính con người mới có đủ
khả năng tạo ra nhiều cung cách khác nhau. Chẳng qua vì trí thông minh của con
người hữu hiệu hơn, họ có thể dấn thân vào những điều tốt lành hoặc xấu xa trên
một bình diện lớn hơn.
Khi con người biết hướng vào điều
thiện, họ sẽ tạo được một sức mạnh đáng kể. Nếu lúc nào ta cũng biết ý thức và
hướng vào những hành vi đạo đức, chẳng những các mục tiêu trong kiếp này mà cả
trong các kiếp sau cũng đều được viên mãn. Nếu ta thiếu ý thức, những hành động
xấu sẽ gây ra khổ đau vô biên. Trong số muôn loài sinh vật tiến hóa trên hành
tinh từ lúc thành hình, loài sinh vật đem đến nhiều tiến bộ hơn hết cho hành
tinh này chính là con người, nhưng chính những sinh vật tạo ra nhiều lo âu, khổ
đau và vô số các vấn đề khác – chẳng hạn như hủy diệt cả địa cầu – cũng chính
là con người. Con người có đủ khả năng làm được những gì tốt đẹp nhất và cả
những gì tồi tệ nhất. Thân xác có khả năng thụ hưởng tiện nghi hay phải gánh
chịu cơ hàn, tạo ra sự dư dả hay phải chịu đựng sự mất mát, vì thế phải thận
trọng đừng gây ra thiệt thòi cho bản thân ta.
Nếu biết chắc trong quá khứ ta đã
từng theo đuổi con đường tốt trong suốt chuỗi dài nhiều kiếp sống, và giả thử
nếu trong kiếp sống này ta có lầm lỡ phạm vào những chuyện điên rồ, cũng có thể
là không quan trọng lắm. Nhưng có chắc đâu đã là như thế. Bất cứ một hiện tượng
biến đổi nào cũng phải có một nguyên nhân; sự biến dạng liên tục của thân xác
ta cho biết là nó đang gánh chịu một số nguyên nhân nào đó. Những thành phần
của cha và mẹ là các nguyên nhân và điều kiện cấu tạo ra thân xác ta. Muốn cho
trứng của mẹ và tinh trùng của cha đi đến chổ phối hợp với nhau, phải có thật
nhiều điều kiện.
Nếu cho rằng sự cấu thành ra thân
xác gồm thịt và máu chỉ cần có trứng và tinh trùng là đủ, thì lúc thành lập vũ
trụ trứng và tinh trùng chưa có, chúng cũng không thể tự phát sinh mà không có
một nguyên do nào (nếu không thì phải xem chúng, hoặc là xuất hiện cùng khắp
mọi nơi, không giới hạn trong không gian và thời gian, hoặc là không hề có)[9].
Vậy điều đó cho thấy còn có vô số các yếu tố khác đã chen vào: yếu tố chính yếu
hơn hết là nghiệp (karma).
Mỗi cấu trúc của vũ trụ gồm có nhiều kỷ nguyên: thành lập, tồn tại, hủy hoại,
cuối cùng là một thời kỳ trống không. Sau khi chu kỳ gồm bốn giai đoạn như thế
chấm dứt, một thế giới mới được thành lập do sự luân chuyển của gió, của năng
lượng và tiếp theo là sự xuất hiện của những thành phần khác. Tuy rằng diễn
tiến trên đây phù hợp với những khám phá khoa học mới nhất cũng như với triết
học Phật giáo, nhưng cũng có một thời kỳ mà vũ trụ không hiện hữu. Quá trình
thành lập một thế giới khởi sự bằng cách dựa vào rất nhiều nguyên nhân và điều
kiện, chính những nguyên nhân và điều kiện đó tạo ra các hiện tượng. Những hiện
tượng ấy, hoặc là tác phẩm của một vị trời sáng tạo, hoặc phát sinh từ nghiệp
(tức là những hành động từ trước) của những con người sinh ra nơi đó, cảm nhận
được hoàn cảnh đó, sinh sống trong môi trường đó. Theo quan điểm Phật giáo, bất
cứ gì đã xuất phát từ một nguyên nhân sẳn có, tức đã nằm trong trạng thái vô
thường (kể cả một vũ trụ), không cần phải lệ thuộc thêm vào những mệnh lệnh hay
vào ý chí mạnh mẽ của một vị trời không có nguồn gốc gì cả.
Thật ra, quá trình thành lập môi
trường xung quanh phát sinh từ sức mạnh nơi nghiệp của chúng sinh. Ta phải luôn
luôn chú ý để hiểu rằng không có nguyên nhân nào lại không gây ra hậu quả. Định
luật hết sức chặt chẽ đó cho thấy trên bình diện lâu dài, những nguyên nhân tốt
tạo ra những hậu quả tốt và những nguyên nhân xấu tạo ra những hậu quả xấu.
Điều này cũng có nghĩa là một hậu quả tốt phải có những nguyên nhân tốt tích tụ
từ trước. Cũng thế, muốn đạt được một hậu quả khả quan phải cần có từ trước một
nguyên nhân thật hùng mạnh. Muốn có được thân xác con người làm nền tảng cho sự
sống, nhất định phải có sự tích tụ thật nhiều nguyên nhân và điều kiện mạnh mẽ
từ những kiếp sống trước để tạo ra từng thành phần của cơ thể, chẳng hạn như
hình dáng, màu da, sự bén nhậy của các giác quan và những đặc điểm khác của cơ
thể.
Nếu thực hiện được một hành vi đạo
đức, những gì hàm chứa trong hành vi đó sẽ giữ nguyên cho đến khi nào quả của
nó phát sinh toàn vẹn trong kiếp sống này hay trong một kiếp sống khác về sau,
chúng ta không đến đỗi quá mong manh đâu. Nhưng không phải chỉ có hành vi tốt.
Một thể dạng tâm thức tiêu cực dai dẳng, chẳng hạn như giận dữ, sẽ làm mất hết
khả năng tích lũy đạo đức và ngăn chận tâm thức không phát triển được, giống
như một hạt giống bị phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Ngược lại, gia tăng mạnh
mẽ hành vi đạo đức sẽ tiêu diệt khả năng phát sinh hậu quả của những hành vị
thiếu đạo hạnh, làm cho chúng không còn khả năng tiếp tục gây hậu quả được nữa.
Vì thế, không những phải kết hợp thật nhiều nguyên nhân thuận lợi mà còn phải loại
bỏ những sức mạnh đối nghịch để bảo vệ những nguyên nhân tốt đẹp không bị hủy
hoại.
Những hành vi tốt tích lũy những
nguyên nhân tốt, tức những tiềm năng tốt, chúng phát sinh từ một tâm thức có kỷ
cương, trong khi các hành vi xấu sinh ra từ một tâm thức bất trị. Con người
bình thường, chẳng hạn như chúng ta đây, đã quen lệ thuộc vào bản năng từ rất
lâu đời. Trong vị thế do bản năng chi phối, bấn loạn phát sinh từ thú tính
thường bùng lên rất mãnh liệt, trong khi những hành vi phát xuất từ một tâm
thức kỷ cương lại có sức mạnh kém hơn. Cần hiểu rằng sự sống đang chống đỡ thân
xác ta thật là tuyệt vời; đó là kết quả tổng hợp từ rất nhiều hành vi tốt, kết
quả của một tâm thức kỷ cương trong quá khứ. Muốn đạt được kết quả như thế phải
cần đến thật nhiều nhẫn nại, vì thế kết quả ấy rất quý giá, ta phải sử dụng nó
thật ý thức, phải thận trọng đừng phung phí thân xác ta. Nếu như những khả năng
mà ta hiện có không phải là chuyện hiếm hoi, dễ tạo ra, thì cũng chẳng phải để
ý làm gì. Nhưng thật ra đâu phải thế.
Cấu trúc của tâm thức rất khó đạt
được, và nếu như nó bền vững, bất biến, không gánh chịu một sự suy thoái nào,
ta sẽ có thì giờ để tận dụng nó. Nhưng tiếc thay, cấu trúc ấy của sự sống thật
mong manh, dễ bị tan rã vì tác động của một số nguyên nhân bên trong cũng như
bên ngoài. Tập « Bốn trăm tiết về các hành vi du-già của người Bồ-tát » của
Thánh Thiên[10] xác nhận rằng thân xác từ lúc khởi đầu đã lệ thuộc vào tứ đại:
đất, nước, lửa và khí, các thành phần này luôn luôn đối nghịch nhau. Hậu quả là
sự an lành của thân xác lệ thuộc vào thế thăng bằng thật mong manh giữa bốn
thành phần kể trên, mong manh vì chúng không giữ được sự hoà hợp lâu dài. Ví dụ
như ta cảm thấy lạnh, hơi nóng sẽ làm ta dễ chịu lúc đầu, nhưng có thể sẽ trở
nên khó chịu về sau. Bệnh tật cũng vậy. Một vị thuốc dùng để trị một căn bệnh
nào đó cũng có thể gây ra những phản ứng phụ có hại. Vậy phải ngăn chận những
loại phản ứng như thế. Cơ thể của ta có thể trở thành nguồn phát sinh nhiều
thác loạn và biến chứng. Khi loại bỏ được những thác loạn và biến chứng đó, tự
nhiên ta sẽ cảm thấy thoải mái trong cuộc sống.
Thân xác cần có thức ăn để nuôi
sống, nhưng nếu ta lạm dụng, thì thay vì thức ăn là một nguồn dinh dưỡng đem
đến sức khoẻ nó lại mang đến bệnh tật và đau đớn cho ta. Những nơi thiếu dinh dưỡng
và lâm vào cảnh thiếu ăn và chết đói là những nơi ngập tràn đau khổ. Nhiều quốc
gia có đủ mọi thứ thức ăn lại chịu hậu quả không hay của việc dư thừa thực
phẩm, chẳng hạn như ăn không tiêu[11]. Nếu như một sự thăng bằng nào đó có thể
tái lập giữa các cực đoạn như vừa kể mà không gây ra biến cố nào, ta gọi như
thế là « hạnh phúc », nhưng thật là ngu xuẩn khi ta tưởng tượng như thế là đã
thoát khỏi, hoặc sẽ thoát khỏi mọi bệnh tật. Loại cơ thể như chúng ta đây là
một cái ổ chứa đủ thứ vấn đề. Nếu như không gánh chịu bệnh tật, chiến tranh,
đói kém, ta sẽ không bao giờ chết. Nhưng bản chất của thân xác ta là tan rã.
Ngay khi được thành hình, cứu cánh của thân xác là sự ra đi.
Thân xác này là một tặng vật quý
giá, hàm chứa rất nhiều khả năng, nhưng lại rất mong manh. Chỉ vỏn vẹn được
sống, đã là một điểm hội tụ quan trọng và vì thế ta phải mang một trọng trách
lớn lao. Ta có khả năng tạo ra điều thiện cho chính ta và cho kẻ khác, nhưng
nếu để những chuyện lặt vặt trong suốt cuộc sống làm cho ta xao lãng, thì thật
là phí phạm biết bao nhiêu! Ta nên tự nhủ sẽ sử dụng cuộc sống này và thân xác
này một cách hiệu quả, ta nên nhờ vị thầy của ta, nhờ Tam Bảo cũng như kêu gọi
những sự hỗ trợ khác giúp ta. Ta tự nổ lực từ bên trong và nhờ sự nâng đỡ từ
bên ngoài. Không phải chỉ tụng liên miên những chữ trong các tiết mục của bài
thơ này là đủ, mà phải suy nghĩ để hiểu hết ý nghĩa, và lúc nào cũng phải để
tâm vào đấy.
Tóm lại, thân xác chuyên chở sự
sống của ta thật là hữu ích, rất khó để có nó, nhưng cũng rất dễ để đánh mất
nó, ta phải tận dụng nó để đem đến an vui cho ta và cho kẻ khác. Những gì tích
cực đều thoát ra từ một tâm thức kỷ cương. Khi tâm thức đã an bình, trong sáng,
hạnh phúc, thì những lạc thú từ bên ngoài như thức ăn thanh tao, quần áo sang
trọng, hàn huyên với bạn bè, tuy có thể làm cho cuộc sống dễ chịu hơn, nhưng
không còn là một điều tối cần thiết cho ta nữa. Nếu tâm thức bất an và bấn
loạn, bất kể những gì xung quanh dù cho có tốt đẹp đến đâu đi nữa, thâm tâm ta
vẫn luôn luôn mang đầy kinh khiếp, hy vọng và sợ hãi. Với một tâm thức nghiêm
minh, ta có thể chọn lựa một cách hiệu quả giữa giàu sang và bần hàn, giữa sức
khoẻ và bệnh tật. Dù cho không có người bạn nào giúp sức, ta vẫn có thể làm
được. Căn nguyên hạnh phúc và an vui của chính ta bắt nguồn từ một tâm linh
trong sáng và nghiêm minh. Đối với môi trường chung quanh, khi ta biết giữ tâm
thức trong sáng và nghiêm minh, bạn bè, người bạn đường của ta, cha mẹ ta, con
cái ta và những người thân thuộc chung quanh, tất cả sẽ cảm thấy dễ chịu hơn
trong cuộc sống. Tổ ấm của ta an bình hơn, những người cùng chia xẻ tổ ấm đó
với ta cũng cảm thấy hoàn toàn thoải mái. Những người đến thăm ta, khi vừa bước
chân vào nhà, cũng cảm thấy ngay một chút hạnh phúc nào đó. Ngược lại, nếu tâm
thức ta bấn loạn và bất trị, không những ta luôn luôn ở trong trạng thái buồn
bực, mà những ai vừa bước vào cửa đều nhận ra ngay không khí cãi vã và khủng
hoảng thường xuyên.
Giữ cho tâm thức nghiêm minh chính là cách tạo hạnh phúc, ngược lại ta sẽ rất
đau khổ, vậy nên tìm cách giảm bớt những xung năng bất trị trong tâm. Hãy bỏ ý
định vượt lên trên địch thủ của ta, ưu đãi bạn bè của ta hơn kẻ khác, làm gia
tăng tài sản của ta v.v. đồng thời hãy khắc phục tâm thức để hướng vào điều
thiện, nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Đó chính là cách rút tỉa những gì tinh anh
biểu hiện bằng xác thân quý giá và mong manh này.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1. Hãy ý thức giá trị của thân xác,
nó đúng thực là của ta vì nó là kết quả của rất nhiều nguyên nhân tốt trong quá
khứ. Nên hiểu rằng những lời giáo huấn trong bài thơ là dành cho ta, sẳn sàng
để cho ta sử dụng.
2. Kiếp sống làm người thật quý
giá, ta có thể dùng nó như một sức mạnh tích cực hoặc sử dụng nó để gây ra tàn
phá, ta cũng hiểu là kiếp sống này hết sức mong manh, vì thế ngay từ giây phút
này, hãy cố gắng sử dụng nó một cách hữu ích.
3. Sự thoải mái của cơ thể liên hệ
đến thế thăng bằng tạm thời giữa những thành phần cấu tạo ra nó, sự hòa hợp ấy
rất hời hợt. Hãy xem những gì tạm thời là tạm thời.
4. Một tâm thức nghiêm minh giúp ta
sáng suốt, thư giản và hạnh phúc, trái lại nếu tâm thức dao động, dù hoàn cảnh
xung quanh có tốt đẹp cách mấy chăng nữa, kinh hoàng và âu lo vẫn xâm chiếm ta.
Tiết 3
Xin cho chúng tôi được hiểu rằng
không nên phung phí một giây phút nào,
Cái chết được biết chắc chắn, nhưng
giờ chết không sao biết trước được,
Những gì kết hợp sẽ phân tán, những
gì tom góp sẽ hủy diệt.
Đi xuống bắt đầu từ nơi tột đỉnh.
Cứu cánh của sự sinh là cái chết.
Từ khởi thủy của thời gian, chúng
ta thường xuyên bị ám ảnh bởi ảo giác của sự trường tồn, chúng ta cứ tưởng rằng
trước mặt có cả một khoảng thời gian không giới hạn. Điều đó đưa ta vào một vị
thế rất nguy hiểm vì ta cứ hẹn tất cả mọi chuyện vào ngày mai. Để chống lại tư
thế đó, ta cần suy tư về vô thường và cái chết có thể xảy đến cho ta bất cứ lúc
nào.
Mặc dù không có gì chắc chắn là ta
sẽ chết tối hôm nay, nhưng khi ta ý thức được cái chết là gì, ta sẽ hiểu rằng
ta cũng có thể chết tối hôm nay. Vậy nếu ta có khả năng hành động giúp ta trong
kiếp sống này và cả kiếp sống sau, ta nên dành ưu tiên cho cách cư xử theo
chiều hướng đó, hơn là chọn những gì dễ dãi và hời hợt cho sự hiện hữu của ta
trong kiếp sống hiện tại. Hơn thế nữa, vì không thể biết trước đích xác giờ
chết của ta, ta lại càng nên tránh đừng phạm vào những sai lầm làm hại cho ta
trong kiếp này và cả kiếp sau. Càng thận trọng có nghĩa là ta càng cố gắng
không tạo thêm những run rũi bất lợi làm phát sinh những hành vi mà ta không
kiểm soát được. Đồng thời tùy theo khả năng sẳn có, ta nên hăng hái thực thi
những hành vi chận đứng những biểu hiện phát sinh từ một tâm thức thô bạo. Được
vậy, dù ta chỉ còn sống một ngày, một tuần, một tháng hay một năm, thời gian đó
đều có ý nghĩa. Tâm thức và hành vi của ta, trên bình diện lâu dài, sẽ giúp ta
thăng tiến, càng sống lâu ta càng gặt hái nhiều điều tịch cực.
Trong trường hợp ngược lại, nếu ta
rơi vào vòng ảnh hưởng do ảo giác của vô thường tạo ra, ta sẽ sống một cách hời
hợt bên lề của kiếp sống này mà thôi, rốt lại ta sẽ mất mát rất nhiều.Vì thế,
trong tiết này, Ban-thiền Lạt-ma đã kéo sự chú tâm của ta trở về với những giá
trị quý báu trong từng giây phút của hiện tại.
Về phần tôi đây, hôm nay đã sáu
mươi bảy tuổi. Tôi là người già nhất trong số mười ba vị Đạt-lai Lạt-ma trước
tôi, trừ vị Đạt-lai Lạt-ma thứ Nhất là Gendrun Drup, vị này sống đến tám mươi
tuổi. Vị thứ năm sống đến sáu mươi sáu tuổi, vậy tôi lớn tuổi hơn ông này: tôi
đã là một người già! Ngày nay, nhờ kỹ thuật trị liệu tân tiến về y khoa và điều
kiện sinh sống cải thiện hơn, tôi có một vài hy vọng nào đó để lưu lại trong thế
giới này đến tám mươi hay chín mươi tuổi. Nhưng chắc chắn là sớm muộn gì tôi
cũng chết. Người Tây tạng chúng tôi nghĩ rằng có thể hy vọng kéo dài sự sống
bằng các nghi lễ, nhưng tôi không chắc chút nào là nhờ vào đó một người tu hành
có thể sống lâu hơn.
Trong suốt cuộc sống, nếu muốn cho
các nghi thức tu tập bên ngoài có thêm hiệu quả, bên trong ta phải tu tập bằng
thiền định để đạt được những nhận biết vững vàng trong tâm thức. Thêm vào đó,
phải nhận thức được Tánh không của sự hiện hữu nội tại, điều này không thể
thiếu sót được vì chính đó là sự hiển lộ của trí tuệ, trong lúc mà ta vẫn tơ
tưởng về cái tôi lý tưởng của ta. Đồng thời cũng cần phát lộ lòng từ bi hướng
về kẻ khác để đạt đến Giác Ngộ. Vì những điều kiện gay go như thế, nên việc
thiền định lâu dài trong suốt một cuộc đời tu tập không phải là chuyện dễ thực
hiện.
Tin tường mọi sự sẽ vĩnh viễn và
kèm thêm vào đó lòng ích kỹ đã ăn sâu vào tim ta, biến nó giống như trung tâm
của thế giới, tất cả sẽ làm thiệt thòi cho ta rất nhiều, vậy cách suy tư hiệu
quả nhất là nhìn vào vô thường, vào Tánh không của mọi sự hiện hữu và lòng từ
bi. Nếu không biết suy tư về những chủ đề ấy và chỉ biết thực hành nghi lễ, thì
dù cho suốt một cuộc đời kiên trì cũng chẳng đem đến lợi ích gì.
Khi tôi được mười lăm, mười sáu
tuổi, lúc ấy tôi đang tu học về các trình độ khác nhau trên đường Giác Ngộ, tôi
khởi sự học một phương pháp thiền định thăng tiến theo từng cấp bậc. Đồng thời
tôi cũng phải đảm trách việc giảng dạy, và muốn giảng dạy tôi phải tiếp tục gia
tăng suy tư bằng phương pháp phân giải, vì lý do giáo huấn và suy tư phân giải
luôn luôn đi đôi với nhau. Chẳng hạn chủ đề liên hệ đến cái chết gồm ba căn
nguyên, chín lý do và ba quyết tâm như sau đây.
Căn nguyên thứ nhất: suy tư rằng
cái chết là điều chắc chắn
1. Bởi vì cái chết, dù sao đi
nữa, không thể nào tránh được,
2. Bởi vì không thể kéo dài
sự sống mãi mãi và phút cuối cùng ngày càng gần thêm,
3. Bởi vì dù cho ta đang còn
sống, nhưng thời gian còn lại rất ít để giúp ta dịp may tu tập.
Quyết tâm thứ nhất: tôi phải tu
tập.
Căn nguyên thứ hai: suy tư rằng cái
chết bất định
4. Bởi vì hy vọng sống được
bao lâu hoàn toàn không ai biết trước,
5. Bởi vì những nguyên nhân
đưa đến cái chết quá nhiều và khả năng duy trì sự sống lại hiếm hoi,
6. Bởi vì giờ chết không thể biết
trước được, lý do là thân xác ta quá mong manh.
Quyết tâm thứ hai: tôi phải tu tập
ngay từ bây giờ.
Căn nguyên thứ ba: hãy suy nghĩ
rằng, đến lúc ta chết, không có gì giúp ta được nữa, ngoại trừ sự tu tập.
7. Bởi vì, trong phút lâm chung,
bạn bè của ta đều bất lực,
8. Bởi vì, trong phút lâm chung,
gia sản của ta sẽ không còn ích lợi gì nữa,
9. Bởi vì, trong phút lâm chung,
thân xác không còn trợ giúp gì được cho ta.
Quyết tâm thứ ba: Tôi phải tập
không bám víu vào tất cả những gì tuyệt vời trong cuộc sống này.
Trong chu kỳ sinh tồn, những gì kết hợp – như cha mẹ, con cái, anh em, chị em,
bạn hữu – sẽ phân tán một cách tự nhiên. Dù ta có bám víu cách mấy: cuối cùng
ta cũng phải tách rời họ. Cả thầy, cả đệ tử, cả cha mẹ, cả con cái, cả anh em
chị em, cả chồng cả vợ, cả bạn hữu – bất kể họ là ai – họ phải tách rời nhau
một ngày nào đó.
Khi nào người thầy lâu đời nhất của
tôi là Ling Rinpoché vẫn còn khoẻ mạnh, tôi không đủ can đảm nghĩ đến cái chết
của thầy tôi, hình như đó là một thứ xúc cảm không chịu đựng nổi cho tôi. Đối
với tôi, ông là một khối đá cứng nhất để tôi nương tựa. Đến đỗi tôi tự hỏi
không biết làm sao tôi có thể sống nếu không có sự hiện diện của thầy tôi.
Nhưng khi ông ngã bịnh lần đầu, rồi thêm một lần thứ hai nghiêm trọng hơn, tôi
bắt đầu tự nhủ trong một góc tâm linh: « Có lẽ hay hơn hết là thầy ra đi trong
lúc này ». Có lúc tôi đã nghĩ đến trường hợp thầy tôi đã suy nghĩ kỹ và đã
quyết định đến lúc phải ra đi vĩnh viễn, phần tôi thì nên chuẩn bị bắt tay vào
trọng trách dành cho tôi: tức là đi tìm vị hóa thân của thầy tôi.
Không những bạn bè ta, tài sản của
ta, và những gì ta tom góp được – dù cho giá trị cách mấy – đều trở nên vô ích.
Bất kể cấp bậc gì hay chức vụ nào của ta, dù cao sang cách mấy, cũng không
tránh khỏi sự sụp đổ. Mỗi khi tôi bước lên bục và trước khi ngồi xuống để
thuyết giảng, tôi đọc nhẩm một câu kinh Kim Cương về vô thường để tự nhắc nhở
lấy tôi:
Hãy quán xét mọi vật, chúng đều
được sinh ra từ sự kết hợp của nhiều nguyên nhân,
Chẳng hạn như những vì sao lấp
lánh, những tưởng tượng phát sinh từ một cái nhìn bịnh hoạn,
Cho đến ánh sáng lập lòe của một ngọn đèn dầu, những ảo giác của ma thuật,
Một giọt sương mai, những bọt bong
bóng, những giấc mơ, những tia chớp và mây bay trên trời.
Tôi suy nghĩ về cái mong manh của mọi hiện tượng, chúng đều có một nguyên nhân,
tôi liền bật hai ngón tay: tiếng động khô khan và ngắn ngủi vang lên tượng
trưng cho vô thường. Và thế đó tôi tự nhắc với tôi rằng tôi sắp bước trở xuống
chiếc ngai này[12].
Tất cả mọi sinh vật – dù có đời
sống dài hay ngắn – chắc chắn cũng sẽ phải chết. Không có một lối thoát nào cả.
Khi đã rơi vào chu kỳ của sinh tồn, ta không thể nào thoát ra khỏi bản chất của
ta. Bất kể những điều kỳ diệu nào bao quanh ta, và dù cho ta biết lợi dụng
chúng để tận hưởng đi nữa thì từ nơi bản chất, cả chúng và cả ta cũng sẽ cùng
nhau đi đến chỗ suy thoái cuối cùng[13].
Dù sao thì ta cũng chết, nhưng ta
không biết được ngày giờ của phút lâm chung mà thôi. Nếu đoán trước được thì
biết đâu ta cũng có thể chuẩn bị. Kể cả trường hợp có vẻ ta còn sống lâu, nhưng
ta cũng không thể quả quyết một trăm phần trăm rằng hôm nay không phải là ngày
ta chết. Vậy không nên hẹn tất cả vào ngày mai. Trái lại, ta phải chuẩn bị như
thế nào để nếu như tối hôm nay ta chết, ta sẽ không còn gì để hối tiếc. Nếu ta
suy nghĩ sâu xa về tính cách vô định và đương nhiên về cái chết của ta, ta sẽ
cảm thấy càng ngày càng phải cương quyết sử dụng thời gian còn lại một cách
sáng suốt hơn. Như nhà du-già Tây tạng Tông-khách-ba[14] đã nói:
Khi ta ý thức được những khó khẳn
để duy trì thân xác này, ta sẽ không thể nào thụ động được.
Khi nắm được ý nghĩa sâu xa của điều ấy, ta sẽ hiểu rằng phung phí thời giờ một
cách vô ý thức là nguyên nhân của lo buồn.
Khi suy tư về cái chết, tức ta
chuẩn bị để sống trong kiếp sau.
Khi ta biết suy nghiệm về hành động
và hậu quả sinh ra từ những hành động đó, thì cội nguồn của vô ý thức sẽ khô
cạn.
Trên đường tu học, khi nắm vững
được bốn căn nguyên ấy,
Những điều thực hiện khác về đạo
đức sẽ nẩy nở một cách dễ dàng.
Không những suy nghĩ về cái chết sẽ
giúp ta chuẩn bị cho phút hấp hối và gợi lên những hành vi đem đến lợi ích cho
kiếp sống về sau, mà ngay trong lúc này biết tập luyện như thế còn ảnh hưởng
một cách cực mạnh trên những cảm nhận của tâm thức ta nữa. Ví dụ đối với một
người không ý thức được cái chết là một điều hiển nhiên, bạn bè và cả gia đình
họ sẽ có cảm giác bất lực vì không thể nào nói chuyện với họ một cách thực tế
được, dù cho họ đã già nua và sắp ra đi. Họ vẫn cần những người xung quanh khen
họ có vẻ tươi tỉnh. Tất cả đều biết đấy chỉ là những điều nói dối. Quả thật là
khôi hài.
Đôi khi, ngay những bệnh nhân đã
đến giai đoạn chót, chẳng hạn như ung thư, nhưng vẫn nhất định tránh không chịu
dùng những tiếng như «chết» hay «cái chết». Tôi thấy không thể nào đề cập đến
cái chết đang tiềm tàng nơi họ, họ nhất định không chịu nghe. Đối với những ai
không đủ can đảm đối đầu với chữ « chết », dù đó là một thực tế đi nữa, lúc cái
chết đến gần sẽ làm cho họ sợ hãi và kinh hoàng. Hãy lấy một thí dụ khác, khi
tôi thấy một vị bác sĩ gần kề giây phút cuối cùng, tôi có thể nói mà không ngần
ngại chút nào: « Dù cho anh sắp ra đi hoặc anh sẽ khỏi bệnh, anh cũng cần phải
chuẩn bị cho cả hai giả thuyết đó »[15]. Cùng nhau suy tư về cái chết gần kề là
một việc hoàn toàn có thể thực hiện được. Đối với một người sẵn sàng đương đầu
với cái chết không hối tiếc, ta chẳng cần ta phải giấu diếm gì cả? Nếu một vị
bác sĩ, từ trước đã nghĩ đến vô thường, sẽ can đảm hơn, sung sướng hơn trong
giờ phút lâm chung. Suy tư về tánh cách vô định của cái chết là cách nuôi dưỡng
tâm linh bằng sự an bình, kỷ cương và đạo đức, vì điều đó sẽ đem đến cho tâm
linh nhiều lợi ích hơn những gì thuộc vật chất phù phiếm trong cuộc sống ngắn
ngủi này.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1. Nếu ta quán nhận được tính cách
bất định về cái chết, ta sẽ sử dụng thời gian còn lại một cách hiệu quả hơn.
2. Muốn tránh việc hẹn sự tu tập
sang ngày hôm sau, ta đừng để cho ảo giác của trường tồn xâm chiếm lấy ta.
3. Phải ý thức rằng một địa vị dù
cho tuyệt vời cách mấy rồi cũng phải chấm dứt.
4. Không nên tin tưởng sau này ta
sẽ còn thừa ngày giờ.
5. Hãy thành thật trước cái chết của ta. Hãy
khuyên những người khác nên minh bạch trước cái chết của chính họ. Đừng tìm
cách lừa dối lẫn nhau, bằng cách tiếp tục khen nhau, khi giờ chết đã gần kề. Sự
lương thiện đem đến can đảm và an vui.