«trước một chuyện không tránh
khỏi». Phật
Tiết 4
Cho chúng tôi được giải thoát khỏi
sự đau đớn vô biên gây ra từ đủ loại nguyên nhân đưa đến cái chết,
Trong thế giới của nhận định sai
lầm giữa chủ thể và đối tượng này,
Xác thân ảo ảnh, cấu tạo bằng tứ
đại ô nhiễm
Kể cả tâm linh, đang bắt đầu tan
rã.
Hãy khởi sự kiến tạo những thể dạng
tâm linh đạo đức càng sớm càng hay trong kiếp sống hiện tại. Như thế ta mới có
thể hướng tâm thức vào con đường đạo đức, kể cả trong giờ phút lâm chung. Trong
quá trình của cái chết, ta có thể bị bệnh tật ngặt nghèo hành hạ. Trừ phi ta đi
hết đoạn đường trong cuộc sống của ta thì thôi, nếu không ta cũng có thể chết
đột ngột vì tai nạn hay bị chấn thương ở não, chẳng qua vì ân đức đã cạn, vốn
liếng do những nghiệp tốt lành giúp ta sống còn, ta cũng đã tiêu dùng hết.
Trong hoàn cảnh ấy, tu tập tâm linh lâu dài không thể thực hiện được nữa (nhưng
cũng có thể không nhất thiết như vậy). Khổ đau quá sức có thể gây ra kinh hoàng
làm mất hết khả năng suy tư của ta, ngoại trừ những người đã đạt được sức mạnh
thiền định trong các cấp bậc cao. Chính vì lý do như thế và đang trong lúc này
đây, ước mong thoát khỏi đớn đau và sợ hãi bủa vây để được chết một cách thoải
mái, quả là điều quan trọng; đó cũng là dịp làm tăng thêm vốn liếng đạo đức mà
ta đã từng vun xới; và rồi nhờ đó biết đâu ta cũng sẽ ý thức được ý nghĩa của
cái chết của chính ta.
Vì chính cái chết đi đôi với sự
phân ly giữa thân xác và tâm thức, do đó cũng nên ý thức bản chất của cái « tôi
» là gì, nó luôn luôn liên hệ với những cấu hợp vật chất và tinh thần. Loại
thân xác mà ta hiện có được xác định đơn giản như một thực thể, phát sinh từ
bốn thành phần là đất, nước, lửa và khí, những cấu hợp đó gánh chịu những đớn
đau gây ra do nhiều nguyên nhân có thể rất nhỏ nhoi. Thân xác ấy giống như một
ảo giác. Nó hiện hữu trong một lúc nào đó, một lúc sau thì biến mất. Chúng ta
có cảm giác đang hiện hữu một cách đương nhiên, nhưng thật ra chúng ta hoàn
toàn trống không về sự hiện hữu nội tại. Tuy thân xác có vẻ sạch sẽ khi được
tắm rửa, được hạnh phúc, tự tại, và kỷ cương, nhưng có thể nói đó là cả một thế
giới dung túng những khái niệm sai lầm, những ảo giác sai lạc về bản thể đích thực
của tâm thức và cả những đối tượng của tâm thức.
Thế giới của những khái niệm sai
lầm trên đây sẽ được bàn đến trong tiết bốn liên quan đến chu kỳ luân hồi của
sự sống. Những khái niệm ấy gồm chung trong các hành động (nghiệp) phát sinh từ
những xúc cảm bấn loạn. Những xúc cảm bấn loạn phát sinh từ vô minh[16], và
nhất là từ thứ quan niệm cho rằng có sự hiện hữu nội tại, quan niệm đó đánh lừa
ta về bản chất đích thực của « cái tôi » và của mọi vật thể, tức xem chúng hiện
hữu tự nơi chúng, một cách tự tại. Vô minh chính là nguyên nhân cơ bản tạo ra
chuỗi dài khổ đau trong những chu kỳ liên tiếp của sinh diệt.
Khái niệm sai lầm về sự hiện hữu
nội tại sẽ tạo ra nghiệp – nghiệp ở đây có nghĩa là hành động và cả những xu
hướng do hành động tạo ra – nghiệp sẽ làm động cơ xoay vần cho chu kỳ sinh
diệt. Những hiện tượng dính liền với quá trình của vô minh có vẻ như là một
hiện hữu tự tại, nhưng thật ra không phải thế. Chúng tạo ra một thế giới sai
lầm. Thế giới của chu kỳ hiện hữu phát sinh từ quan niệm sai lầm giữa chủ thể
và đối tượng – tức chủ thể nhận thức và đối tượng của hành vi nhận thức, những
hiện tượng thuộc bên ngoài và bên trong – sai lầm vì xem chúng hiện hữu một
cách nội tại và đương nhiên, tự nơi chúng và do nơi chúng.
Tiết bốn giúp ta thực hiện ước vọng
tránh khỏi những lo âu quá đáng nhờ vào sự tu tập hữu hiệu che chở, khi tâm
thức bắt đầu tách rời khỏi phần thân xác ảo giác cấu hợp bằng tứ đại. Dâm đãng
và hận thù là những chướng ngại cản trở các hành vi đạo đức.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Hãy tu tập ngay từ giờ phút này,
đến khi lâm chung, cách cư xử đạo đức của ta đã thuần thục sẽ hướng dẫn những
hành vi của ta một cách tích cực hơn.
2- Hãy nhìn thân xác ta như một thế
giới hàm chứa những giá trị giả tạo. Khi được tắm rửa, ta cảm thấy thân xác có
vẻ như sạch sẽ, cũng thế ta có cảm giác những nguồn phúc hạnh sẽ kéo dài vô tận
dưới sự kiểm soát của ta, nhưng thực ra không đúng như thế. Thân xác tứ đại
(đất, nước, lửa và khí) phải gánh chịu mọi đớn đau và nó biến đổi từ phút giây
này sang phút giây khác, tùy thuộc vào những xung năng thúc đẩy nó.
3- Sinh vật và các vật thể xung
quanh có vẻ như hiện hữu tự nơi chúng. Vô minh chấp nhận ảo giác đó, và làm
phát sinh những xúc cảm đớn đau vì thèm khát dâm dục trầm trọng, vì hận thù và
bấn loạn. Tiếp theo, những xúc cảm đớn đau sẽ gây ô nhiễm trong từng cử chỉ
trên thân xác, qua từng lời nói, trong cả tâm thức, để rồi kích động sự xoay
vần của chu kỳ sinh diệt. Hãy luôn luôn tự nhắc nhở rằng ta đang sống trong thế
giới của những khái niệm sai lầm.
Tiết 5
Chúng tôi xin được tránh khỏi những
sinh khởi sai lạc do lỗi lầm
Trong giờ phút cuối cùng đầy thất
vọng, và từ nơi xác thân được trau chuốt cẩn thận này Những kẻ thù khiếp
đảm và những hung thần của cái chết hiện ra.
Đưa chúng tôi đến chỗ tự hủy diệt
bằng khí giới của ba thứ nọc độc là xa hoa, hận thù và lầm lẫn.
Phút lâm chung thật là then chốt vì chính nó đánh dấu một kiếp sống đang chấm
dứt để chuyển sang một kiếp sống khác. Nếu như trong giây phút then chốt ấy,
thân xác vẫn còn thuộc về ta, thì ta còn có thể trông cậy vào nó, nhưng nó đã
bỏ ta một cách đột ngột. Cái thân xác mà ta vô cùng nâng niu, mặc cho nó quần
áo tuyệt đẹp, tiêu xài không tiếc tiền cho nó, đùm bọc nó, cho nó đủ thứ thuốc
men và kích thích nó phạm vào những hành vi tội lỗi, nó đang bỏ rơi ta.
Chỉ vỏn nói đến cái chết đã làm ta
khó chịu. Khi quá trình cái chết của chính ta trở nên quá lộ liễu và những khía
cạnh khiếp đãm của vô thường mà bài thơ của Ban-thiền Lạt-ma gọi là « hung thần
của sự chết » đang phát hiện, thì trong lúc đó một số người phản ứng thật mãnh
liệt bằng cách bám víu vào những gì mình có, chẳng hạn như cha mẹ mình, bạn hữu
của mình, một số khác lại tỏ ra oán hận bạn hữu và cả sự đau đớn đang hành hạ
mình. Nếu như những ám ảnh dâm dục và hận thù không phải là nguyên nhân tạo ra
sự bám víu của ta, thì ta cũng sẽ bám víu quá đáng vào sự hiện hữu tự tại của
ta và những ảo giác khác, nói chung là những dấu hiệu của vô minh. Ba thứ nọc
độc – thèm khát tà dâm, hận thù kẻ khác, vô minh – sẽ tạo ra vô số chướng ngại
cho việc tu học. Chính đó là những khí giới dùng để tự thanh toán ta vào giờ
phút lâm chung. Để tránh khỏi những tư tưởng độc hại ấy bùng dậy trong suốt quá
trình của cái chết, ta hãy cầu xin những thèm khát dâm dục mãnh liệt và sự gia
tăng hận thù đừng xâm chiếm lấy ta và ảo giác đừng hiện ra để quấy rầy
ta.
Riêng đối với cái chết, cần nhất
không nên dùng những loại thuốc làm ta mất khả năng suy tư. Người tu học phải
tránh những chất ma túy làm cho đần độn, phải giữ cho tâm thức minh mẫn được
chừng nào tốt chừng đó. Nếu xin chích thuốc để « cái chết được nhẹ nhỏm », tức
là đánh mất dịp may giúp ta suy tư về vô thường và tìm thấy an bình trong chính
sự vô thường đó, và không cho ta phát lộ lòng từ bi và tình thương yêu kẻ khác.
Chất ma túy nào chống được đau đớn nhưng không làm tê liệt tâm thức may ra có
thể hữu ích, nếu chất ma túy đó không làm gián đoạn sự sinh hoạt bình thường
của tâm thức, tránh được những đau đớn làm cho tâm thức bị xao lãng.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Nên hiểu rằng thân xác mà
ta đang chăm sóc với bất cứ giá nào, sẽ bỏ ta một ngày nào đó.
2- Tránh đừng nuối tiếc địa vị mà ta sẽ phải từ bỏ.
3- Đừng nghi ngờ sự ra đi của
ta.
4- Hãy tránh xa sự thèm khát
dâm dục, hận thù và vô minh, như thế ta mới có thể thực thi những hành vi đạo
đức trong khi chết.
5- Hãy ý thức rằng nếu uống
một viên thuốc hay chích một mũi thuốc để tìm một cái chết gọi là bình an, ta
sẽ đánh mất một dịp may quý báu để thực thi những điều đạo hạnh.
Tạo Những Điều Kiện Thuận Lợi Vào
Giờ Phút Lâm Chung
«Một số người chết trong bụng mẹ /
một số khác khi mới sinh / một số khác khi mới biết bò / một số khác khi đã
biết đi / Một vài người đã già, những người khác đã trưởng thành / Họ đều theo
nhau ra đi / như hoa quả rơi xuống đất ». Phật
Tiết 6
Cho chúng tôi vẫn còn nhớ lại những
lời giáo huấn khi tu học
Trong lúc các y sĩ đã bó tay và
nghi lễ đã chấm dứt
Bạn hữu không còn hy vọng gì về sự
sống của chúng tôi
Và chúng tôi cũng chẳng còn gì để
có thể vớt vát được nữa.
Chương vừa qua nêu lên hai chướng
ngại cản trở một cái chết tốt lành: sự đau đớn không chịu đựng nổi và những ảo
giác gây ra kinh hãi, thù hận, hay hoang mang tâm thần. Ta phải tìm cách loại
bỏ những chướng ngại đó, đồng thời phát huy thái độ rộng lượng bằng cách ôn tập
những điều đã tu học. Lúc không còn hy vọng gì nữa, bác sĩ đã bó tay, các nghi
lễ tôn giáo không còn ích lợi gì nữa, khi bè bạn và người thân đã hết hy vọng,
là chính lúc phải làm tất cả những gì có thể làm được để giữ vững tâm thức
hướng về đạo đức.
Để thực hiện điều ấy, ta cần phải
nhớ lại những lời giáo huấn nêu lên cho ta những hành vi đạo hạnh. Đó là những
gì tôi sẽ trình bày trong các tiết tiếp theo đây, và những lời huấn đạo đó phải
đem ra thực thi trước khi ánh sáng trong suốt thuộc quá trình cái chết hiện ra,
trong lúc ánh sáng đó còn đang hiển hiện và cả sau khi đã biến mất, tức là lúc
khởi sự giai đoạn trung gian[17]. Trong giai đoạn trung gian ấy, ta có thể thực
thi các nghi thức đặc biệt của du-già. Dù đã học được những lời huấn đạo nào
thì ta cũng phải nhớ lại thật minh bạch vào giây phút đó, tùy nơi khả năng và
trí thông minh của của mỗi người. Hãy sử dụng phép tu tập thường lệ từ trước
theo trình độ mà ta đã học hỏi được.
Năm sức mạnh sau đây sẽ giúp sức
cho ta trong khi thực hành:
1- Sức mạnh của thói quen. Ôn tập
thường xuyên để tập cho thuần thục, mặc dù đang ở trình độ nào cũng thế, chỉ
cần quyết tâm muốn thoát khỏi vòng sinh tử, phát lộ tình thương và lòng từ bi
trong mục đích đạt được Giác ngộ vì sự an vui của kẻ khác, hoặc đạt được các
cấp bậc trong Tối thượng Du-già Tan-tra.
2- Sức mạnh hướng về tương lai. Hãy
nghĩ như thế này: «Tôi sẽ tiếp tục tu tập trong kiếp sống này, trong giai đoạn
chuyển tiếp, và cả những kiếp sống sau cho đến khi nào tôi đạt được Phật tính».
3- Sức mạnh của những hạt giống
tốt. Hãy gom góp sức mạnh từ những hành vi xứng đáng (nghiệp tốt) để hướng dẫn
sự tu tập của ta.
4- Sức mạnh của sự gạt bỏ. Hãy tự
nhủ rằng những hiện tượng như sinh, diệt và giai đoạn trung gian chi có thể
hiện hữu do nơi ta mà thôi: chúng hoàn toàn không có tính cách hiện hữu tự tại.
Phải hiểu rằng yêu thương cái tôi là cách tạo ra kẻ thù, vậy hãy suy nghĩ như
thế này: « Sự kiện tôi phải gánh chịu khổ đau trong chu kỳ sinh diệt là do yêu
thương cái tôi của chính mình. Nguồn gốc của cái ngã dính liền với sự tin tưởng
rằng muôn loài và muôn vật đều hiện hữu một cách tự tại. Đìều này hoàn toàn sai
».
5- Sức mạnh của ước vọng. Hãy
thường xuyên lặp đi lặp lại lời nguyện như sau: « Dù sau khi đã chết, tôi vẫn
xin trong kiếp sau sẽ có một thân xác khả dĩ giúp tôi trong việc tu tập Đạo
Pháp. Tôi xin sẽ gặp được một vị thầy tốt hướng dẫn để giúp tôi không bỏ dở sự
tu tập ».
Năm sức mạnh vừa kể rất cần thiết
giúp ta nhớ lại những gì đã tu tập, nhất là trong lúc phải đương đầu với vô số
khó khăn.
Khi chắc chắn có một người sắp
chết, thân nhân xung quanh không nên khóc lóc, nắm tay, ôm họ hay là ta thán.
Chuyện đó không giúp ích được gì. Trái lại, cách cư xử như thế khích động sự
lưu luyến thế giới này trong tâm thức của người chết, và như thế sẽ làm tiêu
tan hy vọng giúp họ chọn lấy một thái độ phù hợp với đạo đức. Người xung quanh
nên nhắc nhở kẻ hấp hối những lời giáo huấn và cách thực thi đạo đức bằng cách
nói thật nhỏ nhẹ bên tai họ cho đến khi nào hơi thở chấm dứt.
Ví dụ như nếu người chết tin vào
một vị Trời sáng tạo, cứ nghĩ đến vị Trời đó thì sẽ được nhẹ nhỏm hơn. Họ sẽ
cảm thấy bớt bám víu hơn vào môi trường chung quanh, ít sợ và ít hối tiếc hơn.
Nếu người sắp chết tin vào sự tái sinh, hãy nghĩ đến kiếp sau, hướng vào quyết
tâm phục vụ kẻ khác, cũng sẽ đem đến những kết quả như trên đây. Điều hệ trọng
là giữ tâm thức thật an bình, đừng làm xáo trộn quá trình của cái chết đang
diễn ra.
Đối với một Phật tử, họ có thể tin
tưởng nơi Đức Phật và phát nguyện xả thân để thực hiện những hành vi đạo hạnh
trong kiếp sau. Nếu là một người không tin tưởng gì cả cũng có thể cho rằng cái
chết là một thành phần bất khả phân của sự sống: khi nó phát hiện cũng chẳng có
gì phải bận tâm lo nghĩ.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1. Phải hiểu rằng vào một lúc nào
đó, tất cả mọi hy vọng sống thêm trong kiếp này sẽ tiêu tan. Vào giây phút ấy,
bác sĩ, tu sĩ, bạn hữu và người thân đều bất lực không giúp ta bảo tồn sự sống
này thêm nữa. Ấy là lúc chính ta phải tự tìm cách giúp đỡ lấy ta.
2. Trong khi hấp hối, cần phải nhớ
lại những lời giáo huấn tùy theo trình độ của ta và chú tâm vào đó.
3. Hãy ôn tập cho quen, quyết tâm
giữ vững đường hướng tinh thần đúng như thế trong bất cứ trường hợp nào, dù cho
gặp khó khăn cách mấy đi nữa. Hãy thực thi thật nhiều hành vi xứng đáng để gom
góp sức mạnh hổ trợ sự sống và cả cái chết của ta. Hãy ý thức rằng khổ đau sinh
ra từ sự yêu mến cái tôi của mình quá đáng, vậy hãy tập yêu thương kẻ khác.
Thường xuyên ước vọng sẽ được tiếp tục tu tập trong những kiếp sau.
4. Khi có một người sắp chết, cẩn
thận đừng làm cho họ bối rối bằng những cử chỉ bám víu hay căng thẳng, điều đó
chỉ gây ra cho người chết những phản ứng tiêu cực. Đừng ta thán sự ra đi của
họ. Tránh đừng ôm họ vào lòng và khóc trước mặt họ. Hãy giúp họ ra đi trong sự
tự hào bằng cách gợi lên cho họ một viễn tượng tốt đẹp sẽ được tiếp tục tu học
sau này.
5. Xin những người xung quanh sau
này hãy làm như thế cho ta lúc ta sắp chết. Tìm cách thu xếp thế nào để có một
người thân thỉnh thoảng nhắc nhở bên tai một thái độ tinh thần nào đó mà ta
muốn thực hiện khi chết.
Tiết 7
Xin cho chúng tôi vững tin với sự
hân hoan và tuyệt vời
Trong khi miếng ăn và của cải tom
góp bằng sự ích kỷ phải bỏ lại
Những người thân vô cùng yêu mến và
thân thiết phải vĩnh viễn xa lìa
Để đơn độc bước vào một hoàn cảnh
thật hiểm nguy.
Thói thường, khi người ta thông báo
cái chết của ta đã gần kề, điều đó sẽ gây cho ta, cả bạn hữu và gia đình ta,
một sự đau buồn lớn. Chính từ nơi trọng tâm của những đau đớn đó sẽ phát khởi
quá trình của giai đoạn hấp hối: sự biến mất dần dần của tâm thức. Như tôi đã
giải thích trước đây, nếu ta biết nghiền ngẫm để rút tỉa tinh túy trong cuộc
sống, biết chăm lo tu tập và biết suy tư về vô thường, khi đến phút lâm chung
ta sẽ dễ dàng nhớ lại những gì cần thiết để tránh những tác hại do ưu phiền và
đau đớn gây ra. Những ảo giác liên quan đến cái chết, thay vì làm ta phân tâm,
sẽ nhắc nhở ta thực thi những gì đã tu tập và khuyến khích ta trong việc tham
thiền.
Biết giữ lấy trong tâm những lời
khuyên nhủ đó, may ra ta sẽ chết trong niềm vui sướng và tin tưởng, giống như
một đứa trẻ sung sướng được quay về ngôi nhà của cha mẹ mình. Lúc nhập vào giai
đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống, những người có trình độ cao có thể nhìn
thấy trước sự tái sinh của chính họ. Những người như thế sẽ chết trong tin
tưởng và không lo phiền. Người tu tập có trình độ trung bình sẽ không sợ hãi,
người có trình độ thấp thì không hối tiếc. Nếu tâm ta đã chuẩn bị để tái sinh
trong một kiếp sống đầy ý nghĩa, đủ khả năng tiếp tục đeo đuổi sự tu học, thì
lúc cái chết xảy ra ta sẽ không hối tiếc, không hoảng hốt, không lo âu. Tâm
thức ta sẽ tan dần trong niềm tin tưởng.
Tôi đã thấy một số nhà sư thông
thái chết trong trạng thái đó. Khi biết mình sắp chết, họ cho gọi người thân
đến để từ biệt. Vào đúng ngày chết, họ khoác lên người chiếc áo cà sa màu nghệ,
không lộ vẽ lo âu gì cả, họ tham thiền và chết. Tại nơi đây, nơi tỉnh
Dharamsala[18] này, một nhà sư sai một đệ tử của ông mang đến cho ông chiếc áo
cà sa. Ông khoác lên người và chết ngay sau đó. Nhiều nhà sư khác cũng tại đây,
trên đất Ấn độ này, sau khi chết, tâm linh lưu lại nhiều ngày trong trạng thái
ánh sáng trong suốt. Một người lưu lại trong trạng thái đó đến mười bảy ngày,
nhiều người khác trong chín hay mười ngày. Mặc dù trong một xứ nóng bức, nhưng
sau khi trút hơi thở cuối cùng, thân xác của họ rất tinh khiết, không một mùi
hôi hám trong suốt thời gian như vừa kể trên.
Những người như thế có khả năng lựu
lại một cách toàn vẹn trong thể dạng ánh sáng trong suốt, tức ánh sáng trong
suốt của cái chết, và ra đi trong niềm vui sướng, với niềm tin tưởng mãnh
liệt.
Người thầy lớn tuổi nhất của tôi là
Ling Ringpoché, kể cho tôi nghe về một vị Lạt-ma, câu chuyện vừa buồn lại vừa
khôi hài. Khi sắp chết vị Lạt-ma này khoác lên người chiếc áo màu nghệ và tuyên
bố với những bạn đồng tu rằng mình sắp ra đi. Sau đó ông ngồi tréo chân theo tư
thế thiền định rồi ra đi. Một trong những người đệ tử mới của ông từ một vùng
xa vừa đến không hiểu rằng người tu hành cũng có thể chết trong tư thế tham
thiền. Anh này khi hay tin thầy minh đã chết, bước vào phòng lại thấy thầy mình
đang ngồi, anh hốt hoảng tưởng là ma nhập vào thân xác của thầy vội xô ông ngã
xuống đất.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Để tránh những bấn loạn do cái
chết gây ra, hãy dựa vào tôn giáo sẳn có của mỗi người để phát lộ từ tâm đến
muôn loài, chú tâm vào sự cần thiết rút tỉa những tinh anh của kiếp sống hiện
tại, một kiếp sống dựa trên niềm hân hoan và may mắn đã biết tu tập, nhất là
hãy suy tư càng nhiều càng tốt về vô thường.
2- Cách tập luyện cơ bản đó sẽ giúp
ta nhớ lại những điều phải thực thi trong khi chết. Những hình ảnh khủng khiếp
và mọi thứ ảo giác tuy có thể phát sinh nhưng không thể làm lung lay sự trầm
tĩnh của ta, không làm xao lãng sự suy tư trong vui sướng và tự tin của
ta.
Thiền Định Trong Khi Chết
« Kiếp sống này sẽ bị xóa đi rất
nhanh / Giống như dùng một chiếc gậy để viết chữ trên mặt nước » Phật
Tiết 8
Cho chúng tôi phát hiện được tinh
thần đạo đức cực mạnh
Trong lúc tứ đại gồm đất, nước, lửa
và khí tan biến dần dần
Sinh lực biến mất, miệng và mũi trở
nên khô và teo lại
Hơi ấm tan đi, hơi thở hổn hển và
tiếng khò khè vang lên.
Bảy tiết đầu tiên trên đây của bài
thơ đề cập chung cho cả hai xu hướng Phật giáo là Kinh điển (Su-tra) và Mật
tông (Tan-tra). Phật giáo Tan-tra hướng vào cách tu tập đặc biệt đòi hỏi phải
tưởng tượng chính ta là một con người đầy từ bi và trí tuệ, mang hình ảnh xác
thân của một vị Phật. Tám tiết tiếp theo đây sẽ trình bày riêng cho ta cách tu
tập theo phương pháp Mật-tông, nhất là phương pháp Tối thương Du-già Tan-tra.
Những điều mô tả về cái chết qua
các trạng thái tan rã dần dần của xác thân và tâm thức, cũng như của tứ đại, là
do Tối thượng Du-già Tan-tra khám phá. Lúc thụ thai, một quá trình thành lập
phát sinh từ chỗ thật tinh tế đến chỗ thật thô thiển, ngược lại, trong diễn
tiến của cái chết, sự tan rã khởi sự từ chỗ thô thiển nhất đến chỗ tinh tế
nhất. Các hiện tượng tan biến gồm tứ đại – là đất (các phần cứng của xác thân),
nước (các chất lỏng), lửa (hơi ấm), khí (sinh lực, cử động).
Dù cho ta giữ được hy vọng đi suốt
cuộc sống cho đến phút chót hay bị gián đoạn nữa chừng, quá trình của cái chết
đều bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Với một cái chết đột ngột, các giai đoạn
đó phát hiện rất nhanh, ta không kịp để ý. Khi cái chết xảy ra theo từng giai
đoạn tuần tự, ta có thể nhận biết và lợi dụng ngay các giai đoạn đó. Những dấu
hiệu báo trước cái chết, chẳng hạn như sự thay đổi trong cách thở gây cám ứng
cho mũi, các giấc mơ khi ngủ và những dấu hiệu trên cơ thể, các dấu hiệu đó có
thể phát hiện nhiều năm trước khi chết, tuy thế, đối với một người bình thường,
các dấu hiệu ấy chỉ xảy ra từ một hay hai năm trước. Những dấu hiệu báo trước
cái chết gồm có sự chán ghét môi trường chung quanh, căn nhà của mình, người
thân của mình, v.v. Mong muốn được đi nơi khác chẳng hạn. Hay ít ra cũng không
còn tha thiết gì đến những thứ đang có. Đồng thời, ta cũng có thể thay đổi thái
độ quen thuộc trước đây, chẳng hạn như tính tình cứng rắn bổng trở nên dễ
thương, hay ngược lại. Sự nồng nhiệt gia tăng hoặc giảm thiểu hẳn đi. Cũng có
thể xảy ra những biến dạng trên cơ thể hoặc trong cung cách cư xử của ta. Cách
ăn nói của ta trở nên thô lỗ hơn, kể cả cố tình thích dùng những lời chửi rủa,
hoặc thường xuyên nêu lên cái chết.
Khi diễn tiến của cái chết bắt đầu,
ta sẽ tuần tự trải qua tám giai đoạn. Bốn giai đoạn đầu là sự tan biến của tứ
đại. Bốn giai đoạn sau liên quan đến sự xâm nhập của tâm thức vào tâm điểm sâu
kín nhất của tâm linh, gọi là ánh sáng tâm thức trong suốt. Các giai đoạn của
cái chết tượng trưng bằng các cấp bậc sâu kín của tâm thức như trên đây vẫn
thường xuyên xảy ra trong đời sống hằng ngày. Nhưng thông thường chúng ta không
để ý tới. Tám giai đoạn tuần tự đó xảy ra trong các trường hợp như: khi hấp
hối, khi ta bắt đầu ngủ, khi giấc mơ chấm dứt, lúc nhảy mũi hay bất tỉnh và
trong lúc khoái lạc. Thứ tự diễn tiến sẽ đảo ngược khi cái chết hoàn toàn chấm
dứt, cũng giống như lúc vừa thức giấc, bắt đầu mơ ngủ, sau khi nhảy mũi, lúc
vừa hồi tỉnh sau cơn hôn mê hay khoái lạc.
Tám giai đoạn đó được xác định bằng
một số hình ảnh, mặc dù mắt không nhận thấy được.
Thứ tự theo chiều thăng tiến như
sau:
1- ảo ảnh
2- khói
3- đom đóm
4- đóm lửa của một ngọn đèn
5- bầu-trời-tâm-thức có màu trắng
rực rỡ
6- bầu-trời-tâm-thức có màu đỏ rực
rỡ
7- bầu trời-tâm-thức có màu đen đậm
8- ánh sáng trong suốt
Thứ tự ngược lại như sau:
1- ánh sáng trong suốt
2- bầu-trời-tâm-thức có màu đen đậm
3- bầu-trời-tâm-thức có màu đỏ rực
rỡ
4- bầu-trời-tâm-thức có màu trắng
rực rỡ
5- đóm lửa của một ngọn đèn
6- đom đóm
7- khói
8- ảo ảnh
BỐN GIAI ĐOẠN ĐẦU TIÊN THEO THỨ TỰ
BÌNH THƯỜNG SỰ TAN BIẾN CỦA TỨ ĐẠI
Thông thường, các thành phần thô
thiển tan biến vào các thành phần tinh tế hơn. Trong lúc các thành phần thô
thiển làm cơ sở nương tựa cho tâm thức tan biến, thì các thành phần tinh tế sẽ
hiển hiện rõ hơn. Tất cả gồm tám giai đoạn, bốn giai đoạn đầu như sau:
Giai đoạn 1: Thành phần đất suy
thoái và tan biến trong thành phần nước. Thể cứng của xác thân, chẳng hạn như
xương cốt, không còn làm nền tảng chống đỡ cho tâm thức được nữa. Các khả năng
của thể cứng tan biến và chuyển sang thể lỏng của thân xác, chẳng hạn như máu
và các chất nhờn. Từ lúc này, khả năng của thành phần nước làm nền tảng cho tâm
thức phát lộ rõ rệt hơn. Thân xác trở nên gầy ốm và tứ chi lỏng lẻo. Ta sẽ mất
hết sức lực: sinh lực và vẻ đẹp của xác thân sẽ hao mòn suy giảm một cách thảm
hại. Mắt tối xầm lại, chỉ thấy mờ mờ. Ta không thể mở mắt hay nhắm mắt được
nữa. Có thể ta có cảm giác như đang lún xuống đất hay trong bùn. Có thể đi đến
chỗ ta phải kêu cứu thật lớn: « Kéo tôi lên! ». Hoặc là ta cố sức gượng dậy.
Lúc đó điều quan trọng là không nên vùng vẫy, hãy trầm tĩnh và giữ thái độ đạo
đức. Những gì đang hiện ra trong tâm thức chỉ là ảo ảnh.
Giai đoạn 2: Tiếp theo là khả năng
của thành phần nước suy thoái và tan biến trong thành phần lửa – tức hơi ấm
giúp cơ thể sinh hoạt. Khả năng của thành phần lửa nắm giữ vai trò chống đỡ cho
tri thức sẽ gia tăng thêm. Lúc này ta không còn cảm giác thích thú hay đau đớn
nữa, cũng không còn nhận ra những cảm giác trung hoà phát xuất từ các giác quan
và từ tri thức tâm thần. Miệng, lưỡi và cuống họng trở nên khô vì thiếu nước
miếng, nước bọt bám ở răng. Tiếp theo là các chất lỏng khác như nước tiểu, máu,
chất lỏng căn bản và mồ hôi bắt đầu khô. Ta không còn nghe được tiếng động.
Tiếng vo ve thường nhật trong tai cũng ngưng bặt. Ta nhận ra trong tâm thức
những gì giống như những luồng khói, hay một lớp sương mỏng toả ra trong gian
phòng, hoặc giống như khói thoát ra từ một ống lò.
Giai đoạn 3: Khả năng của thành
phần lửa suy thoái và tan trong thành phần khí, tức gió hay sinh lực điều động
các cơ năng như hít vào, thở ra, ợ, khạc, nói, nuốt, duỗi các khớp xương, co
tay chân, mở khép miệng, mở khép mi mắt, tiêu hóa, tiểu tiện, đại tiện, có kinh
nguyệt và xuất tinh. Hơi ấm của cơ thể suy giảm, hậu quả là không còn tiêu hóa
thức ăn được nữa. Nếu lúc sống thiếu đạo đức, hơi ấm sẽ chuyển dần từ trên
xuống dưới, từ đỉnh đầu cho đến tim. Phần trên của cơ thể lạnh trước. Nếu từ
trước ta sống trong đạo đức, hơi ấm sẽ chuyển từ gan bàn chân lên đến tim, đồng
thời ta cũng mất khả năng ngửi được mùi vị. Ta không còn theo dõi được những
sinh hoạt và ý muốn của những người chung quanh, ngay cả tên tuổi của cha mẹ,
bạn hữu cũng không nhớ ra được. Ta cảm thấy khó thở, hơi thở ra kéo dài, trong
khi hít vào thì càng lúc càng ngắn. Cổ họng khò khè và hổn hển. Ta có cảm giác
như thấy nhiều đom đóm, cũng có thể là thấy khói, hay là tia lửa giống như
trong một cái chảo đen dùng rang đậu.
Giai đoạn 4: Khả năng của thành
phần khí sẽ suy thoái và tan dần trong phần tri thức tinh tế hơn. Lưỡi dầy ra
và rút lại, cuống lưỡi trở nên tím xanh. Ta mất hết cảm giác, nếu ai chạm vào
cơ thể cũng không biết, kể cả các cử động cũng không ý thức được. Hơi thở tuy
chấm dứt ở mũi, nhưng thật ra vẫn còn lưu lại qua các cấp bậc hô hấp tinh vi,
còn gọi là khí. Hơi thở chấm dứt ở mũi không có nghĩa là quá trình của cái chết
đã đến giai đoạn chót. Trong tận cùng của tâm thức vẫn leo lét một đóm lửa
giống như một ngọn đèn dầu hay một ngọn nến (hay chỉ đơn giản là vầng hào quang
chập chờn của một ngọn đèn dầu hay một ngọn nến). Lúc đầu, ánh sáng rất leo lét
giống như dầu hay sáp sắp hết. Tiếp theo, thành phần khí hàm chứa và chuyên chở
các khái niệm tâm thức, cũng bắt đầu tan biến, hình ảnh của ngọn lửa trở nên rõ
ràng hơn.
Thông thường, cơ thể con người gồm
có bốn thành phần, nhưng có sự khác biệt về kinh mạch và khí trong cấu trúc của
tứ đại, do đó những hình ảnh bên trong phát sinh qua quá trình tan rã của tứ
đại có phần khác biệt đối với một số người. Vì vậy có vài điểm khác nhau trên
chi tiết qua các lời bình giải về quá trình tan rã trong các kinh sách Tan-tra
do Phật truyền lại (hệ thống chính sẽ được dẫn giải trong sách này), chẳng hạn
như kinh Chakrasamvara[19], và kinh Kalachakra[20], hoặc như các kinh điển
Tan-tra thuộc dòng xưa nhất của Phật giáo Tây tạng là dòng Ninh mã. Những khác
biệt ấy rất nhỏ, hầu hết do nơi thành phần khí và những giọt thể lỏng luân
chuyển không giống nhau trong các kinh mạch của cơ thể. Vì những yếu tố bên
trong có sự khác biệt tùy theo mỗi cá nhân, nên cách thực tập du-già cũng có
phần khác nhau đôi chút. Ngay trường hợp các yếu tố bên trong giống như nhau,
những triệu chứng của cái chết hiện lên trong tâm thức cũng có thể khác nhau vì
những người luyện du-già hướng trọng tâm vào những điểm khác nhau trên cơ thể.
Để giúp ta vượt qua quá trình các
giai đoạn vừa kể, ước vọng của Ban-thiền Lạt-ma trong tiết này là nhắc ta cần
biểu lộ một tư thế đạo đức vững mạnh. Chúng ta đây, là những chúng sinh bình
thường, gánh chịu ảnh hưởng của sinh tử, đã mang sẵn những xu hướng phát sinh
từ những hành vi cả tốt lẫn xấu của chính ta xuyên qua nhiều kiếp sống trước,
nhưng quả của những hành vi đó chưa có dịp phát lộ ra hết mà thôi. Mỗi lần ta
quyết tâm thực thi một số hành vi mà ta không lường được hậu quả, có nghĩa là
ta tự góp phần vào việc duy trì chính ta trong chu kỳ sinh diệt.
Những hành vi có tầm ảnh hưởng lớn
lao có thể đẩy ta vào nhiều kiếp sống liên tiếp trong chu kỳ hiện hữu. Lúc gần
chết, một trong các xu hướng, tốt hoặc xấu, sẽ giữ vai trò căn bản làm nền móng
cho kiếp sống mới. Nhiều nghiệp khác sẽ ảnh hưởng phụ thêm, liên quan đến các phẩm
tính của cuộc sống, chẳng hạn như sức khoẻ, tài lợi và trí thông minh. Vì thế,
tư tưởng của ta, tình trạng tâm thần của ta lúc gần kề cái chết thật là hệ
trọng. Ngay cả trường hợp ta biết tu tập đạo đức suốt trong kiếp sống này,
nhưng lúc sắp chết chỉ cần một hành vi ngược lại cũng đủ khơi động và nuôi
dưỡng những xu hướng nguy hiểm có sẵn trong mỗi người. Giây phút đó hết sức
quan trọng. Chẳng hạn như tiếng động gây ra do một người nào đó đặt một vật gì
thật mạnh có thể gây cho người hấp hối khó chịu hay giận dữ. Trái lại một người
tuy ít đạo đức hơn, nhưng lúc chết lại chứng tỏ một tâm linh thật tốt, sẽ khơi
động xu hướng của nghiệp liên quan đến đạo đức, giúp họ tái sinh trong một kiếp
sống tốt lành. Vì thế, phải thật cảnh giác vào phút lâm chung, phải cố gắng giữ
trong tư thế đạo đức. Những người chăm sóc cho kẻ đang chết cần hiểu rằng tâm
linh của người ra đi rất mong manh. Vậy hãy cẩn thận đừng quấy rầy họ bằng cách
ăn nói quá lớn tiếng, khóc lóc hay khua động đồ đạc, cần giữ một môi trường an
bình xung quanh người hấp hối.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Để khỏi bị bất ngờ khi quá trình
của cái chết xảy ra, ta nên nhớ lại những giai đoạn tan biến của tứ đại chẳng
hạn như những dấu hiệu bên ngoài đi kèm theo với quá trình của cái chết, và cần
nhớ lại cả những dấu hiệu bên trong, sẽ mô tả trong tiết tiếp theo.
2- Chú ý khi ghi gần kề cái chết,
cần khơi động những xu hướng tốt bằng thái độ đạo đức.
3- Những dấu hiệu báo trước cái
chết có thể xảy ra từ một đến hai năm trước khi chết. Nhờ vào sự nhắc nhở đó,
ta sẽ kịp chuẩn bị, nhưng tốt nhất nên chuẩn bị sớm hơn nữa.
Tiết 9
Chúng tôi xin đạt được dạng thể tâm
thức trong đó cái chết không hiện hữu
Trong lúc ảo giác của sợ hãi và
kinh khiếp hiện ra
Nhất là ảo ảnh, khói và đom đóm
xuất hiện.
Đồng thời tột đỉnh của tám mươi ý
niệm cũng biến mất.
Khi tứ đại tan biến, đủ loại ảo ảnh
hiện ra. Đôi khi mắt và tai vẫn còn hoạt động, nhưng hình ảnh và âm thanh bất
thường đã xuất hiện. Hình ảnh đủ loại nổi lên trong tri thức. Chẳng hạn những
người đau đớn kiệt quệ vì bịnh tật có thể thấy hỏa hoạn làm cho khiếp đảm. Có
người lại thấy cảnh tượng dễ chịu, lạ lùng và cảm thấy thư giãn. Sự khác biệt
là do các xu hướng phát sinh từ những hành động đạo đức hay lầm lỗi trong kiếp
sống hiện tại hay các kiếp sống về trước. Những xu hướng đó cũng báo trước kiếp
sống tái sinh thuộc loại nào và phẩm lượng nào, cũng giống như sắc trời trước
khi mặt trời mọc báo trước thời tiết trong ngày.
Trong khi tứ đại tan biến tuần tự,
hết thành phần này đến thành phần khác, các dấu hiệu bên trong cũng xuất hiện.
Sự tan biến của thành phần đất trong nước tạo ra hình ảnh giống như ảo giác
trong sa mạc. Sự tan biến của nước trong lửa tạo ra những cụm khói trong lò
hoặc là một lớp sương mỏng lan tràn trong một gian phòng. Sự tan biến của lửa
trong khí sẽ tạo ra đom đóm hoặc những tia lửa trong đáy một cái chảo màu đen
để rang đậu (sự tan biến của khí sẽ trình bày trong chương sau).
Các dấu hiệu đó – như ảo ảnh, khói,
đom đóm, ngọn lửa và kể cả bốn hiện trạng sẽ mô tả sau này – hiện ra với người
chết tuần tự từng giai đoạn một. Đối với những nạn nhân chết đột ngột, hoặc vì
tai nạn hoặc vì khí giới, những dấu hiệu kể trên xuất hiện không toàn
vẹn.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Hãy hiểu rằng hàng triệu ảo ảnh,
trong đó có một số rất hãi hùng và đáng ngại, sẽ hiện ra khi chết, chúng phát
sinh từ nghiệp. Đừng để cho chúng làm ta phân tâm.
2- Hãy ghi nhớ nằm lòng ba hình ảnh
đầu trong số tám hình ảnh: ảo ảnh trong sa mạc, các cụm khói trong lò hay khói
mỏng trong gian phòng, đom đóm hoặc các tia lửa trong chiếc chảo đen rang đậu.
Tiết 10
Xin cho chúng tôi giữ được tâm thức
và nội quan vững mạnh
Trong khi sinh khí bắt đầu tan dần
trong tâm thức
Trong khi luồng hơi thở bên ngoài
chấm dứt và những biểu hiện thô thiển đối nghịch cũng bắt đầu tan biến
Đồng thời hình ảnh giống như đóm
lửa của một ngọn đèn dầu hiện ra.
Tri thức có thể định nghĩa như
luồng ánh sáng hàm chứa sự hiểu biết. Nó chiếu rọi vì bản chất của nó là sự
trong sáng. Tri thức đó chiếu rạng và làm hiển hiện môi trường xung quanh giống
như một ngọn đèn xóa bỏ bóng tối làm cho mọi vật hiện rõ. Tri thức cảm nhận
được các vật thể theo phong cách mà nó đã quen thuộc từ trước, tuy rằng nó
không nhận biết được rành mạch các vật thể đó.
Tri thức được cấu tạo bằng những
đoạn nhỏ của khoảnh khắc thời gian, nhưng không phải bằng các tế bào, bằng các
nguyên tử hay những hạt căn bản của vật chất. Chính vì thế mà bản chất của tri
thức và vật chất hoàn toàn khác biệt từ căn bản, và những nguyên nhân thực thể
của chúng cũng khác biệt. Những thành phần vật chất hàm chứa những thành phần
vật chất khác làm nguyên nhân thực thể cho chúng (ta gọi như vậy vì nguyên nhân
thực thể ấy tạo ra thành phần vật chất, tức là thực thể căn bản của hậu quả),
nhất định phải có một mối tương quan căn bản giữa nguyên nhân của thực thể và hậu
quả của thực thể.
Chẳng hạn, đất sét là nguyên nhân
thực thể của cái bình bằng đất. Nguyên nhân thực thể của tâm thức nhất định sẽ
tạo ra một thành phần sáng và thông minh – tức một phần nhỏ thuộc quá khứ của
tâm thức. Bất cứ một khoảnh khắc tri thức nào cũng đòi hỏi phải có một khoảnh
khắc tri thức khác xảy ra trước đó làm nguyên nhân thực thể. Điều này có nghĩa
là tâm thức hàm chứa một sự tiếp nối liên tục không khởi thủy. Cũng giống như
thế, chu kỳ nhận biết trở lại quá khứ cần phải dựa vào suy luận. Chỉ cần nhớ
lại một kỷ niệm chính xác trong kiếp trước cũng đủ. Không bắt buộc ai cũng phải
nhớ. Sự vắng mặt các kiếp sống trước và các kiếp sống tương lai chưa bao giờ
nhận thấy trực tiếp được.
Tuy nhiên đã có những trường hợp
nhớ lại các kiếp sống trước đã được xác nhận rõ rệt. Mặc dù thân xác lệ thuộc
một số điều kiện nào đó để tăng trưởng hay thoái hóa, nó vẫn mang một sự sống,
khi sự sống chấm dứt, nó sẽ hư thối nhanh chóng và hóa thành thây ma. Mặc dù
trước đây nó mang vẻ đẹp nào đi nữa, hấp dẫn cách mấy đi nữa, nó cũng trở thành
một thây ma. Nếu ta tìm hiểu sức mạnh của sự sống làm cho thân xác không bị hư
thối, ta sẽ nhận ra đó chính là tâm thức. Tâm thức thâm nhập vào thịt da tránh
cho nó khỏi bị hư thối. Chuỗi tiếp nối liên tục của tâm thức (continuum) là
những gì lưu lại trong kiếp sống về sau.
Nếu có sự khác biệt giữa bản chất
của tâm thức và vật chất thì đương nhiên phải có sự khác biệt giữa hai nguyên
nhân thực thể tạo ra chúng. Nhưng không phải vì vậy mà chúng không thể tương
tác với nhau, chúng tác động với nhau bằng nhiều cách. Vật chất có thể tạo điều
kiện hiện hữu cho tâm thức, chẳng hạn như trường hợp phần vật chất tinh tế bên
trong tròng mắt tạo ra điều kiện tương liên với tri thức thị giác, cũng như
phần thân xác của ta làm cơ sở chống đỡ hay nền tảng cho phần tri thức.
Cũng thế, tâm thức tạo hình thể cho
vật chất, bởi vì chính các hành vi, tức là nghiệp của ta, do tâm thức thúc đẩy
tạo ra cấu trúc của môi trường xung quanh. Ảnh hưởng tích tụ từ vô số nghiệp
của thật nhiều người kết hợp lại sẽ tạo ra hệ thống thế giới mà chúng ta đang
sinh sống. Theo Tối thượng Du-già Tan-tra, tâm thức chuyển động, thúc đẩy bởi
một làn gió vật chất thực sự. Mặc dù dưới những hình thức tinh tế nhất, khí lực
không hề được cấu tạo bằng những hạt vật chất. Sự phối hợp giữa tâm thức và khí
chặt chẽ đến đỗi chúng trở thành một thực thể không phân biệt được, một người
đạt được giác ngộ sẽ mang một thân xác hàm chứa khí lực tinh tế dưới thể dạng
của nguyên nhân thực thể, một loại thân xác vượt ra ngoài những hạt căn bản vật
chất, giống như trường hợp của Ứng thân Phật[21] nơi Thanh tịnh độ [22].
Nếu ta đem áp dụng giáo lý về
nguyên nhân thực thể và các điều kiện tương hợp để giải thích thụ thai, ta sẽ
thấy chất liệu của mẹ và của cha – tức trứng và tinh trùng – tác động như những
nguyên nhân thực thể đối với thân xác đứa bé và những điều kiện tương tạo đối
với tâm thức. Khoảnh khắc sau cùng của tri thức đứa bé trong kiếp sống trước
tác động như một nguyên nhân thực thể lúc thụ thai, đồng thời cũng tác động như
một điều kiện tương kết với thân xác. Trên bình diện sơ khởi, thân xác – kể cả
dưới dạng bào thai – đươc xem là cơ sở vật chất cho tri thức nương tựa. Vì thế,
khí chuyên chở tri thức, giống như con ngựa chuyên chở người kỵ mã. Thân xác là
một thực thể vật chất chống đỡ cho tri thức. Dù rằng tâm thức có thể tách rời
thân xác vật chất, giống như trường hợp khi chuyển từ kiếp sống này sang kiếp
sống khác, nhưng tâm thức không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời khỏi cấp bậc
tinh tế nhất của thành phần khí.
Tôi không nghĩ rằng khí lực ở dạng
thật tinh tế, hay là năng lực, có thể xếp vào một trong bốn thành phần của tứ
đại – đất, nước, lửa và khí – vì nó nằm ra ngoài những hạt vật chất. Khí lực
thật tinh tế, thể hiện dưới dạng thể chuyển động của tâm thức tinh tế. Nó có
cùng một thực thể với tâm thức. Rất khó phân tích khí lực và tâm thức tinh tế
bằng các dụng cụ khoa học. Tuy nhiên, có thể khám phá một cách khoa học biểu
hiện của khí lực và tâm thức tinh tế trong trường hợp đã chết hẳn theo tiêu
chuẩn y khoa, trước khi phần tri thức của thân xác tan biến, trong khi thân xác
chưa hoàn toàn hư thối. Một số nhà khoa học đến bệnh viện của chúng tôi, nhưng
không có ai chết trong lúc họ thiết đặt máy móc, và khi có người tu học cao qua
đời thì máy móc của họ lại chưa kịp chuẩn bị.
Khi khí hay năng lực chống đỡ các
cấp bậc khác nhau của tri thức trở nên quá yếu và hoàn toàn tan biến trong tri
thức, những mức độ tâm thức càng lúc càng tinh tế hơn sẽ phát sinh. Khởi đầu
của giai đoạn bốn, trong khi khí làm cơ sở cho một số thể dạng bắt đầu tan
biến, thì hình ảnh của một ngọn đèn dầu hay một ngọn nến hiện ra, lúc đầu leo
lét sau đó trở nên vững vàng hơn. Chính lúc này hơi thở bắt đầu ngưng. Thông
thường, các chuyên gia cho rằng thời điểm đó dánh dấu sự chấm dứt của quá trình
cái chết, nhưng thật ra cái chết chỉ xảy ra rất lâu về sau. Trong giai đoạn vừa
kể, các cấp bậc biểu hiện sơ khai nhất của chủ thể và của đối tượng trở nên
cách biệt và tách rời nhau thành những thực thể riêng biệt, và tất cả đều tan
biến hết. Mắt không còn nhận ra những dạng thể nhìn thấy được, mũi không còn
nhận ra mùi, lưỡi không nhận biết được vị, thân xác hoàn toàn trở nên vô cảm
đối với những vật thể cọ xát và đụng chạm. Bản thể sáng ngời và thông suốt của
tâm thức hiện lên một cách thật tinh khiết.
Khi chết, nếu ta có đủ khả năng cảnh giác để nhận biết các giai đoạn tan biến,
giữ vững nội tâm để cố gắng thực thi phần đạo đức đã học hỏi, việc tu tập sẽ
rất hiệu quả. Ít nhất nó cũng ảnh hưởng được kiếp sống tương lai của ta.
TÓM LƯỢC NHỮNG LỜI KHUYÊN
1- Mặc dù tâm thức và vật chất có
hai nguyên nhân thực thể khác nhau, nhưng vẫn có thể tương tác bằng nhiều cách.
2- Sau ba dấu hiệu bên trong là: ảo
ảnh, khói và đom đóm phát sinh, dấu hiệu thứ tư giống như một ngọn lửa đèn dầu
xuất hiện, leo lét lúc đầu và trở nên vững vàng sau đó.
3- Mặc dù vào thời điểm ấy hơi thở
bên ngoài, tức ở mũi, chấm dứt và không còn ý thức được các phản ứng của giác
quan đối với môi trường xung quanh nữa, người chết vẫn chưa phải là chết. Cần
nhất đừng lay động thân xác, hãy chờ cho đến khi chết hẳn.
4- Khi chết giữ cho tâm thức và nội tâm thật
tỉnh thức sẽ giúp ta nhận biết giai đoạn nào của chu kỳ bên trong đang hoàn
tất, điều đó sẽ giúp ta phát động những xu hướng thật mạnh nhắm vào một kiếp
tái sinh tốt lành.