Sau đây là các tiết trong bài thơ kèm theo phần tóm lược
những lời khuyên trong mỗi tiết.
Ước nguyện giải thoát khỏi những hiểm nguy trong Trạng
thái Trung gian, kẻ Can trường tự giải thoát khỏi sự Sợ hãi
do Ngài Ban-thền Lạt-ma thứ Nhất,
Losang Chokyi Gyeltsen biên soạn
Tiết một: DỰA VÀO TAM BẢO VÀ TÌNH THƯƠNG YÊU KẺ KHÁC, TÔI
XIN ĐƯỢC CHE CHỞ KHỎI SỰ SỢ HÃI TRONG KIẾP SỐNG NÀY, TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN
TIẾP VÀ CẢ VỀ SAU
Bản thân tôi và toàn thể không phân biệt bất cứ sinh linh
nào trong không gian, xin qui y chư Phật của quá khứ, của hiện tại, của tương
lai, xin qui y Pháp, xin qui y Tăng,
Cho đến khi nào được hoàn toàn giác ngộ.
Cho chúng tôi được giải thoát khỏi sự sợ hãi trong kiếp
sống hiện tại, trong giai đoạn chuyển tiếp và cho cả về sau.
1- Điểm khởi đầu của việc tu tập là sự an lành của tất cả
mọi sinh linh – tức là sự giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài để đạt đến sự
toàn thiện. Hãy trau dồi chủ đích đó trong mục tiêu giúp đỡ kẻ khác nhiều chừng
nào hay chừng ấy.
2- Chư Phật thuyết giảng con đường tu học, nhưng không đem
tặng ta một kết quả sẵn có nào cả. Mỗi ngày, chính ta phải tự tu tập về đức
hạnh, thiền định và nâng cao sự sáng suốt.
Tiết hai: KHI BIẾT SUY TƯ VỀ Ý NGHĨA VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN ĐỂ
TẠO RA CƠ SỞ CHỐNG ĐỠ CHO SỰ SỐNG NÀY, TÔI ƯỚC MONG RÚT TỈA ĐƯỢC NHỮNG TINH ANH
TRÊN THÂN XÁC ĐÓ
Cho chúng tôi xin rút tỉa thật nhiều tinh anh từ thân xác
đang chống đỡ sự sống này
Không xao lãng bởi những việc vô ích trong kiếp sống hiện
tại.
Chính cơ sở vững chắc đó, tuy khó đạt được nhưng dễ bị hủy
diệt
Sẽ giúp chúng tôi cơ may lựa chọn giữa ích lợi và mất mát,
giữa tiện nghi và bần hàn.
1. Hãy ý thức giá trị của thân xác, nó đúng thực là của
ta, vì nó là kết quả của rất nhiều nguyên nhân tốt trong quá khứ. Nên hiểu rằng
những lời giáo huấn trong bài thơ là dành cho ta, sẳn sàng để cho ta sử dụng.
2. Kiếp sống làm người thật quý giá, ta có thể dùng nó như
một sức mạnh tích cực hoặc sử dụng nó để gây ra tàn phá. Ta cũng hiểu là kiếp
sống này hết sức mong manh, vì thế ngay từ giây phút này, hãy cố gắng sử dụng
nó một cách hữu ích.
3. Sự thoải mái của cơ thể liên hệ đến thế thăng bằng tạm
thời giữa những thành phần cấu tạo ra nó, sự hòa hợp ấy rất hời hợt. Hãy xem
những gì tạm thời là tạm thời.
4. Một tâm thức nghiêm minh giúp ta sáng suốt, thư giản và
hạnh phúc, trái lại nếu tâm thức dao động, dù hoàn cảnh xung quanh có tốt đẹp
cách mấy chăng nữa, kinh hoàng và âu lo vẫn xâm chiếm ta.
Tiết ba: KHI QUÁN NHẬN ĐƯỢC VÔ THƯỜNG VÀ CÁI CHẾT, TÔI ƯỚC
NGUYỆN VƯỢT KHỎI NHỮNG BÁM VÍU TRONG CHU KỲ
SINH DIỆT
Xin cho chúng tôi được hiểu rằng không nên phung phí một
giây phút nào,
Cái chết được biết chắc chắn, nhưng giờ chết không sao
biết trước được,
Những gì kết hợp sẽ phân tán, những gì tom góp sẽ hủy
diệt.
Đi xuống bắt đầu từ nơi tột đỉnh. Cứu cánh của sự sinh là
cái chết.
1. Nếu ta quán nhận được tính cách bất định về cái chết,
ta sẽ sử dụng thời gian còn lại một cách hiệu quả hơn.
2. Muốn tránh việc hẹn sự tu tập sang ngày hôm sau, ta
đừng để cho ảo giác của trường tồn xâm chiếm lấy ta.
3. Phải ý thức rằng một địa vị dù cho tuyệt vời cách mấy
rồi cũng phải chấm dứt.
4. Không nên tin tưởng sau này ta sẽ còn thừa ngày
giờ.
5. Hãy thành thật trước cái chết của ta. Hãy khuyên những
người khác nên minh bạch trước cái chết của chính họ. Đừng tìm cách lừa dối lẫn
nhau, bằng cách tiếp tục khen nhau, khi giờ chết đã gần kề. Sự lương thiện đem
đến can đảm và an vui.
Tiết bốn: TÔI ƯỚC MONG TRÁNH KHỎI NHỮNG KHỔ ĐAU KHÔNG CHỊU
ĐỰNG NỔI GÂY RA TỪ ĐỦ LOẠI NGUYÊN NHÂN CỦA CÁI CHẾT
Cho chúng tôi được giải thoát khỏi sự đau đớn vô biên gây
ra từ đủ loại nguyên nhân đưa đến cái chết,
Trong thế giới của nhận định sai lầm giữa chủ thể và đối
tượng này,
Xác thân ảo ảnh, cấu tạo bằng tứ đại ô nhiễm
Kể cả tâm linh, đang bắt đầu tan rã.
1- Hãy tu tập ngay từ giờ phút này, đến khi lâm chung,
cách cư xử đạo đức của ta đã thuần thục sẽ hướng dẫn những hành vi của ta một
cách tích cực hơn.
2- Hãy nhìn thân xác ta như một thế giới hàm chứa những
giá trị giả tạo. Khi được tắm rửa, ta cảm thấy thân xác có vẻ như sạch sẽ, cũng
thế ta có cảm giác những nguồn phúc hạnh sẽ kéo dài vô tận dưới sự kiểm soát
của ta, nhưng thực ra không đúng như thế. Thân xác tứ đại (đất, nước, lửa và
khí) phải gánh chịu mọi đớn đau và nó biến đổi từ phút giây này sang phút giây
khác, tùy thuộc vào những xung năng thúc đẩy nó.
3- Sinh vật và các vật thể xung quanh có vẻ như hiện hữu
tự nơi chúng. Vô minh chấp nhận ảo giác đó và làm phát sinh những xúc cảm đớn
đau vì thèm khát dâm dục trầm trọng, vì hận thù và bấn loạn. Tiếp theo, những
xúc cảm đớn đau sẽ gây ô nhiễm trong từng cử chỉ trên thân xác, qua từng lời
nói, trong cả tâm thức, để rồi kích động sự xoay vần của chu kỳ sinh diệt. Hãy
luôn luôn tự nhắc nhở rằng ta đang sống trong thế giới của những khái niệm sai
lầm.
Tiết năm: TÔI ƯỚC MONG KHẮC PHỤC ĐƯỢC NHỮNG BIỂU HIỆN SAI LẦM TRONG LÚC CHẾT
Chúng tôi xin được tránh khỏi những sinh khởi sai lạc do lỗi lầm
Trong giờ phút cuối cùng đầy thất vọng, và từ nơi xác thân
được trau chuốt cẩn thận này
Những kẻ thù khiếp đảm và những hung thần của cái chết
hiện ra.
Đưa chúng tôi đến chỗ tự hủy diệt bằng khí giới của ba thứ
nọc độc là xa hoa, hận thù và lầm lẫn.
1- Nên hiểu rằng thân xác mà ta đang chăm sóc với bất cứ giá nào sẽ bỏ ta một
ngày nào đó.
2- Tránh đừng nuối tiếc địa vị mà ta sẽ phải từ bỏ.
3- Đừng nghi ngờ sự ra đi của ta.
4- Hãy tránh xa sự thèm khát dâm dục, hận thù và vô minh,
như thế ta mới có thể thực thi những hành vi đạo đức trong khi chết.
5- Hãy ý thức rằng nếu uống một viên thuốc hay chích một
mũi thuốc để tìm một cái chết gọi là bình an, ta sẽ đánh mất một dịp may quý
báu để thực thi những điều đạo hạnh.
Tiết sáu: TÔI ƯỚC MONG VẪN CÒN NHẬN BIẾT ĐƯỢC NHỮNG LỜI
GIÁO HUẤN TRONG KHI CHẾT
Cho chúng tôi vẫn còn nhớ lại những lời giáo huấn khi tu
học
Trong lúc các y sĩ đã bó tay và nghi lễ đã chấm dứt
Bạn hữu không còn hy vọng gì về sự sống của chúng
tôi
Và chúng tôi cũng chẳng còn gì để có thể vớt vát được nữa.
1. Phải hiểu rằng vào một lúc nào đó, tất cả mọi hy vọng
sống thêm trong kiếp này sẽ tiêu tan. Vào giây phút ấy, bác sĩ, tu sĩ, bạn hữu
và người thân đều bất lực không giúp ta bảo tồn sự sống này thêm nữa. Ấy là lúc
chính ta phải tự tìm cách giúp đỡ lấy ta.
2. Trong khi hấp hối, cần phải nhớ lại những lời giáo huấn
tùy theo trình độ của ta và chú tâm vào đó.
3. Hãy ôn tập cho quen, quyết tâm giữ vững đường hướng
tinh thần đúng như thế trong bất cứ trường hợp nào, dù cho gặp khó khăn cách
mấy đi nữa. Hãy thực thi thật nhiều hành vi xứng đáng để gom góp sức mạnh hổ
trợ sự sống và cả cái chết của ta. Hãy ý thức rằng khổ đau sinh ra từ sự yêu
mến cái tôi của mình quá đáng, vậy hãy tập yêu thương kẻ khác. Thường xuyên ước
vọng sẽ được tiếp tục tu tập trong những kiếp sau.
4. Khi có một người sắp chết, cẩn thận đừng làm cho họ bối
rối bằng những cử chỉ bám víu hay căng thẳng, điều đó chỉ gây ra cho người chết
những phản ứng tiêu cực. Đừng ta thán sự ra đi của họ. Tránh đừng ôm họ vào
lòng và khóc trước mặt họ. Hãy giúp họ ra đi trong sự tự hào bằng cách gợi lên
cho họ một viễn tượng tốt đẹp sẽ được tiếp tục tu học sau này.
5. Xin những người xung quanh sau này hãy làm như thế cho
ta lúc ta sắp chết. Tìm cách thu xếp thế nào để có một người thân thỉnh thoảng
nhắc nhở bên tai một thái độ tinh thần nào đó mà ta muốn thực hiện khi chết.
Tiết bảy: TÔI ƯỚC MONG ĐƯỢC CHẾT TRONG SỰ TIN TƯỞNG VÀ HÂN
HOAN
Xin cho chúng tôi vững tin với sự hân hoan và tuyệt
vời
Trong khi miếng ăn và của cái tom góp bằng sự ích kỷ phải
bỏ lại
Những người thân vô cùng yêu mến và thân thiết phải vĩnh
viễn xa lìa
Để đơn độc bước vào một hoàn cảnh thật hiểm nguy.
1- Để tránh những bấn loạn do cái chết gây ra, hãy dựa vào
tôn giáo sẳn có của mỗi người để phát lộ từ tâm đến muôn loài, chú tâm vào sự
cần thiết rút tỉa những tinh anh của kiếp sống hiện tại, một kiếp sống dựa trên
niềm hân hoan và may mắn đã biết tu tập, nhất là hãy suy tư càng nhiều càng tốt
về vô thường.
2- Cách tập luyện cơ bản đó sẽ giúp ta nhớ lại những điều
phải thực thi trong khi chết. Những hình ảnh khủng khiếp và mọi thứ ảo giác tuy
có thể phát sinh nhưng không thể làm lung lay sự trầm tĩnh của ta, không làm
xao lãng sự suy tư trong vui sướng và tự tin của ta.
Tiết tám: TÔI ƯỚC NGUYỆN PHÁT KHỞI ĐƯỢC TÂM THỨC MẠNH MẼ
VÀ ĐẠO ĐỨC KHI NHỮNG DẤU HIỆU BÊN NGOÀI CHO BIẾT SỰ THOÁI HÓA CỦA CÁC THÀNH
PHẦN CẤU HỢP ĐÃ BẮT ĐẦU.
Cho chúng tôi phát hiện được tinh thần đạo đức cực mạnh
Trong lúc tứ đại gồm đất, nước, lửa và khí tan biến dần
dần
Sinh lực biến mất, miệng và mũi trở nên khô và teo lại
Hơi ấm tan đi, hơi thở hổn hển và tiếng khò khè vang lên.
1- Để khỏi bị bất ngờ khi quá trình của cái chết xảy ra,
ta nên nhớ lại những giai đoạn tan biến của tứ đại chẳng hạn như những dấu hiệu
bên ngoài đi kèm theo với quá trình của cái chết, và cần nhớ lại cả những dấu
hiệu bên trong, sẽ mô tả trong tiết tiếp theo.
2- Chú ý khi gần kề cái chết, cần khơi động những xu hướng
tốt bằng thái độ đạo đức.
3- Những dấu hiệu báo trước cái chết có thể xảy ra từ một
đến hai năm trước khi chết. Nhờ vào sự nhắc nhở đó, ta sẽ kịp chuẩn bị, nhưng
tốt nhất nên chuẩn bị sớm hơn nữa.
Tiết chín: TÔI ƯỚC MONG DUY TRÌ ĐƯỢC SỰ NHẬN BIẾT THẬT SÂU
XA TRONG KHI NHỮNG DẤU HIỆU BÊN NGOÀI PHÁT HIỆN.
Chúng tôi xin đạt được dạng thể tâm thức trong đó cái chết
không hiện hữu
Trong lúc ảo giác của sợ hãi và kinh khiếp hiện ra
Nhất là ảo ảnh, khói và đom đóm xuất hiện.
Đồng thời tột đỉnh của tám mươi ý niệm cũng biến mất.
1- Hãy hiểu rằng hàng triệu ảo ảnh, trong đó có một số rất
hãi hùng và đáng ngại, sẽ hiện ra khi chết, chúng phát sinh từ nghiệp. Đừng để
cho chúng làm ta phân tâm.
2- Hãy ghi nhớ nằm lòng ba hình ảnh đầu trong số tám hình
ảnh: ảo ảnh trong sa mạc, các cụm khói trong lò hay khói mỏng trong gian phòng,
đom đóm hoặc các tia lửa trong chiếc chảo đen rang đậu.
Tiết mười: TÔI ƯỚC
MONG PHÁT KHỞI ĐƯỢC SỨC MẠNH ĐỂ CỐ GẮNG THỰC HIỆN ĐẠO ĐỨC TRONG LÚC NHỮNG BIỂU
HIỆN THÔ THIỂN VÀ ĐỐI NGHỊCH TAN BIẾN.
Xin cho chúng tôi giữ được tâm thức và nội quan vững mạnh
Trong khi sinh khí bắt đầu tan dần trong tâm thức
Trong khi luồng hơi thở bên ngoài chấm dứt và những biểu
hiện thô thiển đối nghịch cũng bắt đầu tan biến
Đồng thời hình ảnh giống như đóm lửa của một ngọn đèn dầu
hiện ra.
1- Mặc dù tâm thức và vật chất có hai nguyên nhân thực thể
khác nhau, nhưng vẫn có thể tương tác bằng nhiều cách.
2- Sau ba dấu hiệu bên trong là: ảo ảnh, khói và đom đóm
phát sinh, dấu hiệu thứ tư giống như một ngọn lửa đèn dầu xuất hiện, leo lét
lúc đầu và trở nên vững vàng sau đó.
3- Mặc dù vào thời điểm ấy hơi thở bên ngoài, tức ở mũi,
chấm dứt và không còn ý thức được các phản ứng của giác quan đối với môi trường
xung quanh nữa, người chết vẫn chưa phải là chết. Cần nhất đừng lay động thân
xác, hãy chờ cho đến khi chết hẳn.
4- Khi chết giữ cho tâm thức và nội tâm thật tỉnh thức sẽ
giúp ta nhận biết giai đoạn nào của chu kỳ bên trong đang hoàn tất, điều đó sẽ
giúp ta phát động những xu hướng thật mạnh nhắm vào một kiếp tái sinh tốt
lành.
Tiết mười một: TÔI ƯỚC MONG VỚI KINH NGHIỆM SẲN CÓ SẼ NHẬN
RA ĐƯỢC BẢN THỂ ĐÍCH THỰC CỦA CHÍNH MÌNH KHI BA DẠNG THỂ ĐẦU TIÊN VỀ TÁNH KHÔNG
PHÁT HIỆN
Chúng tôi xin được hiểu rõ bản chất thực sự của chính
chúng tôi
Nhờ vào du-già đã xem chu trình của sinh tử và cả niết bàn
đều là hư vô.
Trong lúc ảo giác gia tăng và những gì thực hiện sắp hoàn
tất cũng tan biến – cái khởi thủy tan trong cái tột cùng.
Tiếp theo là những giác cảm phát sinh giống như ánh trăng,
ánh sáng mặt trời và bóng tối lan tràn.
1- Nhiều thái độ và khái niệm khác nhau sẽ phát khởi với nhiều sức mạnh khác
nhau về sự chuyển động của khí trên các đối tượng của nó.
2- Hãy nhớ rằng sau bốn dấu hiệu bên trong là ảo ảnh,
khói, đom đóm, và ngọn lửa (của một ngọn đèn hay một ngọn nến, leo lét ban đầu
và vững vàng sau đó), ba trạng thái tâm thức tinh tế hơn tức là
bầu-trời-tâm-thần màu trắng rực rỡ, bầu-trời-tâm-thần màu đỏ cam, bầu-trời-tâm-thần
màu đen đậm sẽ phát hiện sau đó.
3- Hãy lợi dụng các trạng thái tâm thức thật tinh tế ấy để
thể hiện Tánh không đích thực.
4- Tánh không không có nghĩa là không có gì cả. Đúng hơn
nên xem đó là tính cách thiếu sót của sự hiện hữu nội tại (tự tại) nơi mọi hiện
tượng, kể cả sinh vật và mọi vật thể.
5- Tập phân tích mọi hiện tượng: chúng có hiện hữu một
cách nội tại hay không, chúng có phải do sự cấu hợp từ nhiều thành phần cá thể
của chúng, hay là một thứ gì khác. Điều đó chứng minh cho thấy mọi hiện tượng
không đến nỗi quá cụ thể như chúng hiện ra với ta.
6- Mọi nguyên nhân và hậu quả, tác nhân và hành vi, điều
tốt và điều xấu, đều hiện hữu một cách quy ước mà thôi. Trên thực tế, chúng chỉ
là sản phẩm do nhiều điều kiện tạo tác ra chúng.
7- Tính cách thiếu độc lập của chúng, hay là Tánh không của chúng về sự hiện
hữu nội tại chính là thực tính tột cùng của chúng. Trí tuệ phải ý thức được
điều đó, cũng như phải ý thức được Vô minh tiềm ẩn trong những thèm khát dục
tính lôi kéo theo hận thù và khổ đau.
8- Hãy dựa vào sự luyện tập du-già như đã trình bày trên
đây, để đạt được sự hiểu biết về bản thể tối hậu của ta và của tất cả mọi hiện
tượng.
Tiết mười hai: TÔI ƯỚC VỌNG PHỐI HỢP ĐƯỢC ÁNH SÁNG TRONG
SUỐT MẸ VÀ ÁNH SÁNG TRONG SUỐT CON TRONG THỂ DẠNG THỨ TƯ CỦA TÁNH KHÔNG
Xin ánh sáng trong suốt của mẹ và con gặp nhau
Trong khi sự thực hiện gần như sắp hoàn tất, tự nó cũng
tan dần trong hư không
Xin mọi sự sinh xôi chấm dứt
Và cảm giác tương tợ như bầu trời mùa thu không ô nhiễm sẽ
bừng lên.
1- Giai đoạn cuối cùng của cái chết xảy ra khi bản thể bẩm
sinh của ánh sáng trong suốt xuất hiện. Bản thể ánh sáng ấy hiện hữu từ lúc
thời gian chưa bắt đầu và sẽ hiện hữu vô tận.
2- Qua thể dạng của Phật tính, người ta có thể lưu lại
trong bản thể bẩm sinh của ánh sáng trong suốt, không suy thoái trở lại những
cấp bậc thô sơ của tri thức theo một quá trình đảo ngược. Trong vị thế đó,
nghiệp không còn tích tụ nữa.
3- Ngay cả đối với những người bình thường không tu hành,
lúc chết cũng không xảy ra những biểu hiện thô thiển. Đối với một người tu học
cao thâm, họ sẽ dựa vào sức mạnh do sự tu tập thiền định về Tánh không để tìm
cách lợi dụng trạng thái trên đây để thực hiện chân lý, tức Tánh không của mọi
hiện hữu nội tại.
4- Bản thể thông thường của ánh sáng trong suốt phát sinh
vào giai đoạn chót của cái chết gọi là ánh sáng trong suốt mẹ. Ánh sáng trong
suốt phát huy từ sức mạnh tu tập trên đường đạo hạnh gọi là ánh sáng trong suốt
con.
5- Khi ánh sáng trong suốt của cái chết – tức ánh sáng mẹ
– phát sinh do nơi nghiệp trở thành một thể dạng tâm linh khi tiếp xúc với Tánh
không của ánh sáng trong suốt con, lúc đó đó chính là thời điểm gặp nhau giữa
ánh sáng trong suốt mẹ và ánh sáng trong suốt con.
Tiết mười ba: TÔI ƯỚC VỌNG ĐƯỢC THIỀN ĐỊNH VỮNG BỀN TRONG
TRÍ TUỆ PHÁT KHỞI TỪ PHÚC HẠNH VÀ TỪ TÁNH KHÔNG, KẾT HỢP ĐƯỢC PHÚC HẠNH TỰ TẠI
VỚI TÁNH KHÔNG, TRONG CẢ BỐN GIAI ĐOẠN CỦA TÁNH KHÔNG.
Chúng tôi xin được lắng vào trạng thái thật sâu của thiền
định.
Trong tinh anh cực mạnh phát sinh từ sự kết hợp giữa phúc
hạnh bẩm sinh và Tánh không.
Xuyên qua quá trình bốn giai đoạn của Tánh không, trong
lúc xảy ra hiện tượng tan rã của thể tạng màu trắng giống như ánh trăng,
Gây ra vì lửa của Sức mạnh Âm tính nhanh như một tia chớp.
1- Người tu tập ở mức độ cao nhất, với niềm tin trên đường
Đạo, có thể biến cải ánh sáng trong suốt mẹ phát sinh do nghiệp vào lúc chết.
2- Trong các cấp bậc thấp hơn, những người tu tập Thần
linh Du-già thuộc Tối thượng Du-già Tan-tra có thể hình dung biểu hiện của tám
dấu hiệu của cái chết bằng ba cách chú tâm: nhận ra dấu hiệu đang phát sinh,
dấu hiệu trước đó và dấu hiệu tiếp theo. Tập cho quen với sự xuất hiện liên tục
tám dấu hiệu của cái chết bằng cách liên kết với sự quán nhận về Tánh không.
Mỗi dấu hiệu đều có ba phần, trừ dấu hiệu đầu và cuối chỉ có hai:
- Ảo ảnh xuất hiện. Khói sẵn sàng bốc lên.
- Khói tỏa ra. Ảo ảnh vừa biến mất.
Đom đóm chuẩn bị phát sinh.
- Đom đóm vụt phát hiện. Khói vừa
tan biến đi. Một ngọn lửa bắt đầu le lói.
- Ngọn lửa hiện ra. Đom đóm vừa bay
đi. Bầu-trời-tâm-thức sắc trắng rực rỡ đang chuẩn bị.
- Bầu-trời-tâm-thức sắc trắng rạng
rỡ hiện ra. Ngọn lửa vừa bị che khuất. Bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam chuẩn bị
hiện ra.
- Bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam xuất
hiện. Bầu-trời-tâm thức màu trắng rạng rỡ vừa tan biến, Màu đen thật đậm chuẩn
bị phát sinh;
- Màu đen thật đậm hiện ra.
Bầu-trời-tâm-thức màu đỏ cam vừa rút ra xa. Bản thể ánh sáng trong suốt đang ở
thời điểm phát khởi.
- Ánh sáng trong suốt hiện ra. Màu
đen xậm vừa bị xoá đi.
3- Trong cách tu tập đặc biệt của
Thần linh Du-già thuộc Tối thương Du-già Tan-tra, người tu học dùng sự hiểu
biết về Tánh không theo trình độ của mình để làm phát hiện tám dấu hiệu của cái
chết. Họ lại tiếp tục sử dụng bản thể của ánh sáng trong suốt, tức nhận thức
được Tánh không – hay hình dung một thể dạng tri thức giống như thế – làm
phương tiện để hiển hiện dưới dạng thể hoàn toàn lý tưởng và tràn đầy từ bi của
một vị Thần linh.
4- Đối với những người tu tập cao,
đã phát lộ được lòng từ bi vững chắc và một trí tuệ vượt bậc, họ có thể sử dụng
sự giao hợp tính dục như một kỹ thuật để tập trung cao độ tâm thức trong lúc
bản thể tự tại và căn bản của ánh sáng trong suốt biểu lộ. Nhờ vào nội tâm đó,
họ ý thức được Tánh không của mọi hiện hữu nội tại một cách vô cùng mãnh
liệt.
Tiết mười bốn: TÔI ƯỚC VỌNG ĐẠT ĐƯỢC
ẢO THÂN THAY VÌ PHẢI TRẢI QUA TÌNH TRẠNG TRUNG GIAN
Chúng tôi ước mong xin đạt được thể
dạng thiền định sâu xa về ảo giác
Để thay vào trạng thái trung gian,
khi rời khỏi ánh sáng trong suốt,
Để vượt lên và đạt được dạng thể
một Thân xác Đại hạnh với những dấu hiệu và vẽ đẹp đầy vinh quang và sáng ngời
của một vị Phật,
Phát hiện từ khí lực và bản thể của
ánh sáng trong suốt của cái chết.
1) Những người tu tập thật cao có
khả năng sử dụng ánh sáng trong suốt của cái chết và khí chuyên chở nó như
những nguyên nhân thực thể tương quan đến phần tâm thức tinh khiết và thân xác.
2) Để có thể chuyển từ bản thể ánh
sáng trong suốt thành một thân xác tinh khiết, tác tạo bằng khí lực, cần phải
nhờ vào sự tu tập từ trước để tưởng tượng ta có một tâm linh và một thân xác
thúc đẩy bời lòng vị tha. Những gì ta cố gắng bắt chước sẽ có thể đưa đến sự
thực.
3) Sự biến cải cuối cùng có thể
không cần thiết phải chuyển từ bản thể bẩm sinh và căn bản của ánh sáng trong
suốt sang một cấp bậc thô thiển hơn của tâm thức. Vì điều đó đã tạo ra một thể
dạng bất tử.
Tiết mười lăm: TÔI ƯỚC VỌNG NHỮNG
BIỂU HIỆN SAI LẦM TRONG TRẠNG THÁI TRUNG GIAN THÔNG THƯỜNG SẼ HIỂN HIỆN NHƯ MỘT
THÂN XÁC TINH KHIẾT
Do nơi nghiệp, khi giai đoạn trung
gian xảy ra,
Chúng tôi cầu xin mọi biểu hiện sai
lầm đều được tẩy sạch,
Nhờ vào sự phân tích cấp thời và ý
thức được tính chất không thực của mọi hiện hữu nội tại
Của mọi khổ đau do sinh và tử, và
của cả giai đoạn trung gian.
1. Cần phải nhớ lại các dấu hiệu
nhắc nhở cho biết là ta đang trong giai đoạn chuyển tiếp.
2. Hãy xem những biểu hiện hay
những cảm nhận dễ chịu hay bực bội chỉ là những cảm nhận xuất phát từ nghiệp
của ta.
3. Trước những gì đang hiển hiện,
ta nên tưởng tượng rằng ta đang là một Ảo thân, mọi biểu hiện của sinh linh đều
là những phát lộ cao đẹp của từ bi và trí tuệ, những hiển hiện trong môi trường
xung quanh gồm toàn là những lâu đài tráng lệ...
4. Tránh không tìm cách xô bỏ những
gì xấu xí hoặc ham thích những gì xinh đẹp.
5. Hãy ý thức rằng những ảo tưởng
đủ loại, những khổ đau của cái chết, trạng thái chuyển tiếp, sự tái sinh, hoàn
toàn không có một hiện hữu nội tại. Tự bản thể của chúng, chúng không có
thật.
Tiết mười sáu: ƯỚC VỌNG TÁI SINH
NƠI CỎI TỊNH ĐỘ NHỜ VÀO SỨC MẠNH DU-GIÀ BIẾN CẢI NHỮNG GÌ BÊN NGOÀI, BÊN TRONG,
VÀ THẦN BÍ.
Chúng tôi xin được tái sinh nơi cõi
Tịnh độ
Nhờ vào du-già để biến cải những gì
bên ngoài, bên trong và sự thần bí
Bằng những biểu hiện đủ loại, bốn ý
nghĩa của sự đảo ngược các thành phần,
Ba loại hiển hiện khiếp đảm và
những sự hoang mang, đang phát sinh.
1. Hãy nên chuẩn bị để biết rằng
trong giai đoạn trung gian, sẽ có nhiều hiển hiện lạ lùng, có thể là kỳ thú hay
kinh hãi. Từ lúc này, nên hiểu rằng tất cả những gì hiện lên ta đều có thể làm
cho chúng biến đổi nhờ vào sức mạnh của tưởng tượng.
2. Hãy giữ thật bình tĩnh. Hãy
tưởng tượng môi trường xung quanh gồm toàn là lâu đài tráng lệ trong một khung
cảnh an bình. Hãy xem mọi sinh linh đều hàm chứa một bản thể tinh anh tràn ngập
từ bi và trí tuệ. Hãy xem chính tâm thức ta là một tâm thức hoan hỷ đang lắng
vào Tánh không.
3. Thực hiện được như thế sẽ giúp
ta tái sinh trong một hoàn cảnh thuận lơi cho việc tu tập để vượt lên một mức
độ thực hiện sâu xa hơn.
Tiết mười bảy: TÔI ƯỚC VỌNG SẼ ĐƯỢC
TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG CÓ Ý NGHĨA
Chúng tôi xin được tái sinh trong một thân xác cao đẹp
của một người tu tập Tan-tra biết
sữ dụng không gian,
trong thân xác của một nhà sư, hoặc
của một người thế tục nhưng thấu triệt được ba cách tu tập
Chúng tôi cũng xin đạt cho được con đường Đạo hạnh đưa đến hai giai đoạn là sự
sáng tạo và thực hiện
Để nhanh chóng đạt được các Hiện
Thân của Phật: Thân chính Giác
Thân Đại Hạnh và Thân Biến
Hóa
1. Trong quá trình tái sinh, hãy cố
gắng đạt được một thân xác tương lai trong một hoàn cảnh thuận lợi để đi cho
trọn con đường tu tập Đạo Pháp.
2. Mục đích là đạt được sự Giác ngộ
tối thượng để có thể phục vụ kẻ khác.
Sách tham khảo
S.S le Dalai Lama, Comment
pratiquer le Bouddhsme, dịch từ tiếng Anh do Yolande du Luard, Plon, 2002,
Pocket 2003.
- Sens de la vie:
réincarnation et liberté, dịch từ tiếng Anh do Michel Cool và Pierre Lafforgue,
J’ai lu 2000.
- Kindness, Clarity, and
Insight, dịch từ tiếng Tây tạng do Jeffraey Hopkins, Ithaca, N.Y.
Snow Lion Publication, 1984.
RINPOCHÉ Lati et Jeffray HOPKINS,
La mort, l’État intermédiaire et la Renaissance dans le Bouddhisme tibétain.
Dharma, 1997.
TSONGKHAPA, Le Grand Livre de la
progression vers l’Éveil, vol. 1, Dharma, 1997.
LEKDEN, KENSUR, Compassion et
vacuité: méditation d’un supérieur de collège tantrique pratique de la vacuité,
Publié chez Dharma, 1989.
HOPKINS, Jeffray, Bouddhist Advice
for Living ang Liberation; Nagarjuna’s Precious Garland. Ithaca, New York;
Snow Lion Publication, 1998.
- Cultivating Compassion. New York: Broadway
Books, 2001.
WALLACE, Vesna A. and B. Alan WALLACE,
A guide to Bodhisattva Way
of Life. Ithaca, New York, Snow Lion Publications, 1997.
Rinchen, Geshe SONAM and Ruth
SONAM, Yogic Deeds of Bodhisattvas: Gel-stap on Aryadeva’s Four Hundred, Ithaca, New York,
Snow Lion, 1994.
Chú Thích
1 Bodgaya: Phật Già-Đa hay Chánh
Giác Sơn. Đức Thích Ca đã tham thiền nơi đây và đắc quả Chánh Giác.
2 « Đỉnh kên kên », đỉnh núi có
khối đá hình dáng một con chim kên kên. Kinh sách tiếng Hán và tiếng Việt viết
là « Linh thứu sơn », còn gọi tắt là « Linh sơn » (tiếng Phạn là
Gridharakuta»).
3 Ninh-mã phái (Nyingma) còn gọi là Hồng giáo vì các nhà sư đội mũ màu nâu đỏ.
Đây là giáo phái xưa nhất trong bốn giáo phái chính của Tây tạng.
4 Còn gọi là Tối thương Du-già
Tan-tra hay Vô thượng Du-già Tan-tra: phương pháp tu luyện tối thượng, thành
phật trong kiếp này với thân xác này. Tối thượng Du-già Tan-tra xem tâm tịnh là
căn bản của mọi phép tu.
5 Còn gọi là Bồ tát Văn Thù hay
Diệu Đức, hay Diệu Cát Tường, hay Diệu Âm, (tiếng Phạn là Manjousrhi), là vị Bồ
Tát tượng trưng cho Trí Tuệ và kinh nghiệm giác ngộ bằng phương tiện Tri Thức.
6 Tăng đoàn
7 Câu này là tiếng Phạn, tạm dịch
nghĩa: « Om, Ngọc Quý trong Hoa Sen, Hum » (Om
và Hum không có nghĩa nhưng hàm chứa âm hưởng thiêng liêng)
8 Ý câu này có lẽ muốn nói đến sự
cân đối giữa tâm linh và thể xác, hàng thú vật phần tâm linh kém hơn.
9 Chẳng hạn trường hợp chó xông vào
đám cháy để cứu trẻ em, nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặc trường hợp cá
voi, cá heo cứu người trên biển...
10 Đây là một mệnh đề về luận lý
triết học. Một cách đại cương, sự hiện hữu của xác thân trên đó giác cảm, sự
cảm nhận và tâm thức phát triển, là do sự phối hợp của rất nhiều «nghiệp», hay
rất nhiều nguyên nhân và điều kiện.
11 Thánh Thiên: tên tiếng Phạn là
Aryadeva, dịch âm là Đề-Bà, dịch nghĩa là Thánh Thiên Bồ-tát, còn gọi là Độc
Nhãn Bồ Tát vì giai thoại sau đây: Trên đường từ Tích Lan đến tu viện Nalanda,
bắc Ấn độ, ngài gặp một người đàn bà xin một con mắt để tu luyện, ngài liền móc
mắt bên phải và cho ngay. Thánh Thiên sinh vào cuối thế kỷ thứ II tại Tích Lan,
là một trong những đệ tử quan trọng của Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna), và cũng là
tổ thứ 15 của Thiền tông Ấn độ. Ngài trụ trì một thời gian khá lâu tại tu viện
Nalanda, trước khi trở về phương Nam. Một trong các tác phẩm chính
của Ngài là « Bốn trăm tiết mục » liên quan đến du-già.
12 Hiện trạng thân thể phì nộm (quá
mập), là một lo lắng của các xã hội Tây phương hiện nay.
13 Đức Dạt-lai Lạt-ma cũng như những nhà sư Tây tạng khác, khi thuyết giảng
thường ngồi trong tư thế hoa sen trên một bục gỗ cao trang trí rất đặc biệt.
14 Dịch câu này tôi liên tưởng đến
hiện tượng ta gọi là « phép lạ ». Dù phép lạ có thật, xảy ra thật nhiều và
thường xuyên đi nữa, rốt cuộc ta cũng chết. Phép lạ không phải là một giải
pháp, cũng chẳng phải là một lối thoát. Nếu « có thật » đi nữa, cũng chỉ là tạm
thời và giai đoạn mà thôi, kể cả phép lạ và người làm ra phép lạ, sự thoái hóa
và tan rã cũng đã nằm sẵn trong đó.
15 Tsongkapa, dịch âm là
Tông-Khách-Ba (1357-1419), là một vị Lạt-ma nổi danh của Tây tạng, sáng lập
tông phái Cách lỗ (Gelugpa). Ông sinh ở tỉnh Amdo, cùng quê với Đức Đạt-lai
Lạt-ma XIV. Từ bé đã cực kỳ thông minh, lúc ba tuổi thụ giới với một vị sư
thuộc dòng Cát-mã-ba (Karmapa). Trong số những tác phẩm ông đã để lại có thiên
luận giải gồm 18 bộ, đã trở thành kinh sách giáo khoa của Phật giáo Tây tạng.
16 Một câu nói rất ý nhị, một vị
bác sĩ đương nhiên sẽ hiểu rằng giả thuyết nào sẽ gần với sự thật hơn hết để
chuẩn bị.
17 Vô minh, tiếng Phạn là Avidya,
dịch âm là A-vĩ-nễ hay A-vĩ-di, có nghĩa là tâm thức không sáng, ám muội, u mê,
không nhìn thấy bản thể đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố. Vô minh cũng
có nghĩa gần tương đương với si, si mê (mudha, moha).
18 Giai đoạn trung gian, còn gọi là
trung ấm, tức giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống.
19 Thuộc miền tây bắc Ấn độ, nơi
Đức Dat-lai Lạt-ma lưu trú.
20 Dịch âm là kinh Cha-kra
sam-va-ra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe đại hạnh ». Một bộ kinh quan trọng của
Phật giáo Tây tạng.
21 Dịch âm là kinh Ka-la cha-kra,
dịch nghĩa là kinh « Bánh xe thời gian » hay kinh « Thời luân ». Bộ kinh rất
quan trọng thuộc trường phái của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Kinh Ka-la cha-kra là một
bộ kinh rất thâm sâu và phức tạp, xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ X ở Ấn độ,
nhưng theo truyền thống thì bộ Kinh này có nguồn gốc xưa hơn, từ thời Đức Phật
Thích-ca.
22 Phật ứng hiện dưới ba xác thân
gọi là Tam thân Phật:
- Pháp thân (dharmakya): bản thể
của Phật, còn gọi là Chân như.
- Báo thân (vipakakaya): hiện thân
của Phật.
- Ứng thân (nirmànakaya): còn gọi
là Hoá thân, Ứng hóa thân, Biến hóa thân...có nghĩa Phật ứng hiện ở muôn ngàn
thể dạng khác nhau để tùy cơ dẫn độ chúng sinh.
23 Thanh tịnh độ còn gọi là Tịnh
độ, Phật quốc, Phật giới, Phật địa v.v…
24 nKhông được rõ về lịch sử các
nhân vật này và nguồn gốc kinh sách trích dẫn.
25 Tức là sự nhận biết, còn gọi là
thức (tiếng Phạn: vijnana), có thể xem tương đương với các chữ như tri giác, ý
thức hay tri thức, khác nghĩa với tạng thức hay hay A-lại-gia-thức (tiếng Phạn
alayavijnana). Học phái Duy Thức xem tạng thức là dạng thể cao nhất của phần
tâm thức, là căn bản của mọi hiện tượng. Nghĩa khác biệt nhau giữa các danh từ
là một trở ngại lớn trong việc dịch thuật. Các chữ thức, tri thức, tri
giác...có nghĩa là sự nhận biết, trong khi đó chữ tâm thức hay tâm linh có
nghĩa rộng và sâu hơn, gồm cả xúc cảm, sự suy nghĩ, tình cảm, những xung năng
tiềm ẩn...
26 Cách mô tả sinh học của Tối
thượng Du-già Tan-tra là một cách mô tả « ẩn dụ », tức cụ thể hoá và đơn giản
hoá những gì phức tạp hơn, nhắm vào mục đích hướng dẫn sự chú tâm và thiền định.
27 Đám rối dương (plexus solaire)
là một danh từ Y khoa, còn gọi là trung tâm thần kinh thực vật nằm giữa dạ dày
và xương sống.
28 Trẻ vị thành niên ở các trường
học, hoặc trong phòng riêng của chúng thường bày trò chơi bằng cách dùng dây
hay khăn buộc cổ và xiết thật chặt đến lúc gần ngất xỉu (chết) mới buông ra.
Chúng tự làm hay nhờ bạn làm giúp. Giây phút sắp ngất xỉu, vì thiếu dưỡng khí
lên óc, tạo ra một trạng thái « sảng khoái » (?) hay « hoa mắt » làm cho chúng
thích thú. Trò chơi này thường gây nhiều tai nạn chết người, phụ huynh và những
người giữ trọng trách giáo dục tại Âu châu thường chú ý canh chừng và cấm đoán.
Trường hợp mô tả trên đây là dùng các kỹ thuật du-già (thiền định) để tìm hiểu
những trạng thái sâu kín trong quá trình của cái chết.
29 Bà Alexandra David-Néel cũng đã chứng kiến những hiện tượng này, xin xem các
sách của bà. Bà Alexandra David Neel (1868-1969) là một người phưu lưu và xông
pha khác thường, có một trí thông minh vượt bậc. Bà là người phụ nữ Âu châu đầu
tiên đến được Lhasa
năm 1924. Bà viết rất nhiều sách về Phật giáo, về Tây tạng, Ấn độ, Trung hoa,
và đã từng đến Việt Nam và có viếng đền thờ hai Bà Trưng tại Hà nội, trước khi
tiếp tục đi ngược lên Vân nam thuộc Trung quốc. Sách của bà đã có nhiều ảnh
hưởng trong nền tư tưởng Phật giáo Âu châu và thế giới kể cả thế hệ trí thức
của cha anh chúng ta trong cả hai giai đoạn tiền chiến và hậu chiến. Rất tiếc
sách của bà rất ít được dịch sang tiếng Việt. Cụ Đoàn Trung Còn, một học giả
lỗi lạc của Việt Nam, có trích dịch sách của bà trong quyển « Mấy thầy tu huyền
bí Tây tạng và Mông cổ » xuất bản năm 1942. Quê của bà ở miền Nam nước Pháp và
ngôi nhà trước kia của bà hiện nay đã trở thành một bảo tàng viện trưng bày
nhiều di vật, bản thảo các sách của bà ; bàn thờ Phật vẫn giữ nguyên như khi bà
còn sống. Hàng năm rất nhiều người đến viếng và chiêm ngưỡng. Khi Đức Đạt-lai
Lạt-ma đến miền Nam
nước Pháp thuyết giảng, có ghé đến đây và đọc một bài diễn văn tưởng niệm bà.
30 Tánh không, tiếng Phạn là «
Sunyata » có sách viết là không, hư không, hư vô (các kinh sách Tây phương dịch
là vide, vacuité, espace, vacuum, emptyness...). Tánh không của mọi hiện tượng,
tức mọi vật thể và mọi biến cố, là một khái niệm căn bản của Đạo Pháp. Mọi hiện
tượng ta « thấy » và « hiểu », tức cảm nhận được, chỉ là những biểu lộ tạm
thời, phát sinh từ nhiều nguyên nhân và liên hệ với nhiều điều kiện ; chúng
biến đổi không ngừng, kể cả các nguyên nhân và điều kiện tạo tác ra chúng. Đó
là bản chất vô thường của mọi vật thể và mọi biến cố, thực tính hay bản chất
đích thực của chúng là Tánh không.
31 Kinh sách tiếng Việt và Hán gọi
là « giả tướng »
32 Trí tuệ tiếng Phạn là Prajna.
Thật ra, trong kinh sách Tây phương cũng như kinh sách tiếng Việt, không có chữ
nào tương đương và diễn tả hết ý nghĩa của chữ này. Chữ Prajna dịch âm là:
Bát-nhã, Bát-lạt-nhã, Ban-nhã, Bát-la-nhã, Tỳ-bà-xá-na..., dịch nghĩa là Trí,
Minh (Sáng), Trí-huệ hay Trí-tuệ...
33 Tiếng nhà Phật là Vô Minh
(=A-vĩ-di, Avidya).
34 Nhà bác học và triết gia Pháp
Blaise Pascal, thuộc thế kỷ XVII, đã phát biểu một câu nổi tiếng như sau: « Tôi
suy nghĩ tức là tôi hiện hữu » (Je pense donc je suis). Vậy ta thử hỏi trước
khi ta suy nghĩ, ta có hiện hữu hay không? Giữa hai sự suy nghĩ hay sau một sự
suy nghĩ (vì lý do này hay lý do khác, bắt buộc hay tự ý: xao lãng, ngất
xỉu...), ta có hiện hữu hay không? Vậy sự hiện hữu của ta dính liền với một
điều kiện phải có là sự suy nghĩ, sự suy nghĩ của ta lại dính liền với vô số
những điều kiện khác nữa, chẳng hạn như thân xác ta, tâm thức ta, sự học vấn
của ta, ngay cả sự hiện hữu của ta, v.v. và v.v…
35 Tức là giới luật của những vị Bồ
tát, gọi là Bồ Tát Giới, gồm 10 điều nghiêm cấm hệ trọng và 48 điều nghiêm cấm
thứ yếu. Điều 8 trong 10 điều nghiêm cấm hệ trọng là sự Ganh ghét.
36 Tông-khách-ba (Tsongkhapa)
(1357-1419): là một vị Lạt-ma Tây tạng, sáng lập giáo phái Cách lỗ (Gelugpa)
37 Khi ta không thấy sự hiện hữu
nội tại hay tự tại của mọi hiện tượng, ta cho là chúng không có, không hiện hữu
đích thực (Tánh không). Nhưng ta không thể phủ nhận cơ sở, tức đối tượng của
những gì ta đang tìm kiếm. Rốt lại, ta nhận ra rằng những gì ta tìm kiếm và
những gì ta phủ nhận cũng chỉ có bằng tên gọi hay danh xưng mà thôi.
38 Có thể tạm hiểu như « thực tính
» của một hiện tượng.
39 Tức ba giai đoạn hiển hiện của
bầu-trời-tâm-thần màu trắng, màu đỏ cam, màu đen.
40 Mặc dù hết sức đa đoan, Đức
Đạt-lai Lạt-ma vẫn ngồi thiền, học hỏi, tu tập liên tục mỗi ngày, luôn luôn
nhắc đến các vị thầy của mình và truyền lại cho chúng ta những kinh nghiệm đã
học hỏi được. Xin chú ý sự khiêm nhường của một vị « Phật sống ». Trong nhiều
sách khác Ngài cho biết vẫn ngồi thiền và ôn tập các giai đoạn của quá trình
cái chết từ sáu đến tám lần mỗi ngày. Ta thấy rằng điều này chẳng có hại gì đến
sự thư giản, và sức làm việc của Ngài, vì lúc nào Ngài cũng tươi cười, ân cần
với tất cả mọi người, có khi lại rất dí dỏm và khôi hài.
41 Những hiện tượng này đã được
nhiều bệnh viện và bác sĩ Tây phương chứng nhận khi có các nhà sư Tây tạng chết
tại Mỹ châu và Âu châu. Chỉ có các nhà sư Tây tạng mới xác định được lúc nào
người chết đã « chết hẳn ».
42 Có những trường hợp khi các vị
cao tăng ngồi thiền, hoạt động sinh lý của cơ thể chậm hẳn lại, tim đập rất nhẹ
và rất chậm, nhịp thở cũng rất chậm và thật nhẹ, mạch gần như không nhận ra.
Các vị ấy bất động trong tư thế ngồi thiền giống như tình trạng đã viên tịch,
nhưng râu tóc vẫn thấy mọc. Người chung quanh chờ mãi không thấy động tịnh, hư
rữa, liền đem sơn (loại sơn mài) bôi lên khắp người thành một pho tượng. Ngày
nay người ta có thể nhìn thấy hoặc chụp hình bộ xương bên trong bằng quang
tuyến X. Những di tích này vẫn còn ở Việt Nam và vài nước Á châu khác.
43 Dịch nghĩa là kinh « Kết hợp
thần bí », bộ kinh này được dịch sang tiếng Tây tạng vào thế kỷ XI.
44 Có thể đây là những hình ảnh cụ
thể hóa dùng để mô tả những diễn biến siêu hình vượt ra khỏi sức hiểu biết
thông thường của ta, trong mục đích sử dụng cho việc thiền định.
45 Tức là không còn tái sinh nữa
46 Phát huy hơi nóng là cách tu tập
của một số nhà sư Tây tạng. Vào mùa đông dưới không độ, họ trần truồng ngồi
thiền định xếp hàng trên tuyết, những người phục vụ nhúng một cái mền (chăn)
hay khăn trong nước lạnh buốt và đắp lên lưng họ, khi chăn khô vì hơi nóng thì
lại đắp lên tấm khác. Số chăn sấy khô trong một đêm xác nhận cấp bậc thiền định
của mỗi người. Hiện tượng này gần đây đã được các bác sĩ người Mỹ nghiên cứu
bằng cách nhờ các nhà sư Tây tạng trên đất Mỹ và tại Dharamsala (Ấn độ) thực
hiện. Họ đeo cho các nhà sư máy móc để đo nhịp tim, áp huyết và nhiệt độ nhiều
nơi trên thân thể, mặt nạ đo nhiệt độ và tổng lượng dưỡng khí hít vào, khí oxid
carbon thở ra v.v....Bà Alexandra David-Neel cũng có mô tả cách luyện tập này
trong các sách của bà. Chính bà cũng tập luyện thành công phép này và cho biết
hơi nóng phát sinh giúp những nhà sư ngồi thiền định trong các hang núi ở Hy Mã
Lạp Sơn có thể nhịn đói và chịu lạnh qua hết mùa đông. Bà còn cho biết những
người tu cao, không cần ngồi trong tư thế thiền định, sức nóng vẫn phát sinh tự
nhiên, chỉ cần mặc một áo mỏng giữa mùa đông.
47 Để đưa ra một thí dụ: Sau đây là
vài lời khuyên của một nhà sư người Mỹ Lama Surya Das, từng tu học gần ba mươi
năm ở Népal, Tây tạng, Ấn độ, và hiện giảng dạy tại Mỹ (vùng Boston):
Khi ngồi, ta hãy ngồi như một vị
Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đứng, ta hãy đứng lên như một
vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đi, ta hãy bước lên như một vị
Phật. Hãy xem ta là một vị Phật
Khi suy nghĩ, ta hãy suy nghĩ như
một vị Phật. Hãy để cho Phật suy nghĩ xuyên qua tâm ta.
Khi thở, ta hãy hít thở như một vị
Phật.
Hãy để cho Phật hít thở bằng thân
xác ta.
Hãy để cho Phật sống bằng thân xác
ta. Hãy xem ta là một vị Phật.
Hãy tận hưởng sự toàn thiện tự
nhiên. Ta sẽ nhận thấy rằng ta giống rất nhiều với một vị Phật, nhiều hơn là ta
đã tưởng.
(Lama Surya Das: Éveillez le
Bouddha qui est en vous, nhà xuất bản Robert Laffont, 1998, 347 trang, đoạn
trích dẫn trang 129, sách dịch từ nguyên bản tiếng Anh)
48 Thần linh biểu tượng của Trí
tuệ.
49 Khi « lấy » tinh trùng của một
người đàn ông và trứng của một người đàn bà trong những điều kiện nào đó, chính
« người cho » và « người thực hiện » việc thụ thai trong ống nghiệm đã mang
những chủ đích rõ rệt và những kích thích tiềm ẩn. Kể cả trong ngành chăn nuôi
kỷ nghệ ngày nay (heo, bò, ngựa...), cũng cần phải kích thích con vật đực để
lấy tinh trùng và chờ lúc thích hợp để đưa tinh trùng vào tử cung của con vật
cái. Chính những chủ đích, xu hướng và những kích thích tiềm ẩn như vừa kể đã
tạo ra những điều kiện cần thiết hay môi trường (duyên) « thu hút » hoặc «
ruồng bỏ » (tác động của nghiệp) liên hệ đến sự kết hợp trứng và tinh trùng
(quả của nghiệp); sự kiện thụ thai chỉ là cơ sở chuyên chở cho sự tái sinh.
50 Tức là thụ thai trong ống nghiệm.