Điều này là tại sao nói rằng, đối với chúng ta, rất khó
khăn để liên hệ một cách trực tiếp đến những vị Phật. Ý chúng tôi là, những
phẩm chất của các Ngài là ngoài sự tưởng tượng của chúng ta. Nhưng, chúng ta có
thể liên hệ qua vị đạo sư, vị giáo thọ hay vị thầy tâm linh. Đấy không có nghĩa
là bất cứ vị đạo sư tâm linh nào – không chỉ là một vị lạt ma nào đấy người đã hoàn
tất một khóa tu ba năm rồi đến và giảng dạy tại một trung tâm. Chúng ta nói về
những gì vĩ đại nhất trong những thứ vĩ đại. Đấy là thí dụ mà chúng ta muốn
nhìn vào, trong hình thức làm thế nào để liên hệ đến giải thoát và giác ngộ. Cho
dù họ được giải thoát hay không, chúng tôi nói về ai? Nhưng ở đây có ai đấy
thật sự có những phẩm chất nổi bật. Thế thì điều này cho chúng ta một điều gì
đấy có giá trị lớn … đối với một thí dụ thực tiển.
Chúng tôi không có ý nói là tất cả những lạt ma, những
người đã hoàn thành khóa tu ba năm và đến phương Tây là không đủ phẩm chất và
không đủ năng lực gia trì – Chúng tôi không có ý đó. Nhưng thường chúng ta có
thể hoàn toàn thất vọng với sự hướng dẫn của họ, với cung cách họ đối phó với
những hoàn cảnh. Cho nên, tốt nhất là hãy nhìn vào một thí dụ nổi bật thật sự: vì
thế vị lạt ma nổi bật nhất trong những đại lạt ma, vì chúng ta có một số thâm
nhập nào đối với họ, chúng ta có thể đến với sự giảng dạy của họ. Những sự
giảng dạy của họ sẳn sàng trên mạng lưới điện toán và v.v…Giống như với ai đấy
đã nhận bằng geshe (tiến sĩ Phật học Tây Tạng). Hay ngay cả ai đấy là một vị
hóa thân (tulku)…một vị lạt ma tái sinh…một vị rinpoche (sư trưởng). Điều ấy
không có nghĩa là họ có những phẩm chất cao nhất. Do thế, trong giáo huấn luôn
luôn nói rằng, “Thử nghiệm vị thầy trong một thời gian dài.” Điều ấy là quan
trọng.
Có một điểm khác về sự thực hành Giáo Pháp ở phương
Tây…điểm cuối cùng, bởi vì chúng ta cần kết thúc…là thường có đủ loại lạt ma,
và hóa thân, và geshe, và kenpo, và bất cứ điều gì, đến qua thành phố chúng ta,
một số thành phố nào đấy hơn những thành phố kia. Và thậm chí họ ban những lễ
truyền pháp. Và chúng ta chưa bao giờ nghe về con người này; chúng ta không
biết bất cứ về họ. Và tuy thế, có sự kiện này đang xãy ra; và nhiều người trong
chúng ta đi đến do bởi những người khác đang đi đến, hay do bởi dường như vì
thế chúng ta nên đi đến [để xem nghe]. Điều đó thật sự không chính đáng.
Một điều giống như thế với quá nhiều điều thuận tiện trên
mạng lưới điện toán. Chính bởi vì điều gì ấy thuận tiện sẳn sàng, giống như ai
đấy đến thành phố chúng ta và ban lễ truyền pháp, hay chính bởi vì nó ở trên
mạng lưới điện toán, hay chỉ bởi vì có mà một quyển sách mà chúng ta có thể
mua, không có nghĩa rằng điều ấy là đáng tin cậy. Chúng ta phải kiểm nghiệm
lại. Tìm hiểu “Vị lạt ma ấy là ai.” Hỏi. Lần thứ nhất…nó giống như thế, giống
như nhìn điều gì ấy trên mạng lưới điện toán hay một quyển sách. Chúng ta có
thể đọc nó. Chúng ta có thể đi đến một lễ truyền pháp. Điều ấy không có nghĩa
rằng chúng ta thật sự tiếp nhận được lễ truyền pháp và chấp nhận một cách
nghiêm chỉnh người này như vị đạo sư mật thừa tantric của chúng ta. Điều đó là
những gì rất khác biệt. Chúng ta muốn đi đến tham dự, kiểm soát lại. Điều ấy
tốt. Chúng ta đọc điều gì đấy trên mạng lưới điện toán - ồ, điều đó có phải là
rác rưởi không? Điều này có đáng tin cậy không? Ai viết nên nó? Nếu nó là rác
rưởi – chúng ta lãng quên nó. Cũng giống như thế. Chúng ta sẽ tìm một vị lạt
ma, người có phẩm chất hơn, ai đấy kém phẩm chất hơn. Ngay cả những người có đủ
phẩm chất, có thể không thích hợp với chúng ta, [không cộng hưởng hay hòa điệu
tâm linh với chúng ta]. Chúng ta không cảm thấy bất cứ một sự liên kết nào với
họ. Hãy kiểm nghiệm điều ấy. Chỉ bởi vì ai đấy có một ít, hay chỉ bởi vì ai đấy
biết trình bày một nghi thức truyền pháp, điều đó không đủ, như một trình độ
hay năng lực chuyên môn, để là một vị thầy tantric của chúng ta.
Vì thế, thay vì là nói rằng ở phương Tây vấn đề đặc biệt
mà chúng ta có là không có quá nhiều thuận lợi, tôi nghĩ rằng đúng hơn là trái
lại. Vấn đề là có quá nhiều thuận lợi. Và làm thế nào chúng ta phân biệt khi
chúng ta có…điều này tôi nghĩ là kinh khủng…đó là có hàng trăm nhãn hiệu Phật
giáo khác nhau? Bởi vì mỗi vị lạt ma đến và khai trương một trung tâm của chính
họ và có ba trăm người như họ sẳn sàng…hoặc là trên mạng lưới điện toán, hay
bất cứ nơi nào…làm thế nào chúng ta chọn lựa? Đây là một vấn đề lớn. Điều này
khác với những gì có trong quá khứ. Chúng tôi không có phép thuật giải đáp cho
câu hỏi đó. Chỉ bởi vì điều gì hiện lên như đệ nhất hạng (number one) trên
Google khi chúng ta tìm kiếm, không có nghĩa điều đó là tốt nhất. Thế nên,
chúng ta phải sử dụng đến óc thông minh của chúng ta, sự phân biệt của chúng
ta, để kiểm nghiệm lại nó và hãy kiên nhẫn, và không nên hấp tấp vội vả trong
việc quyết định rằng “Điều này là cho tôi – điều này là tốt nhất.”
Và bây giờ hãy chấm dứt với lời hồi hướng.
Chúng ta suy tư: “Bất cứ điều thông hiểu gì, bất cứ năng
lực tích cực nào đến từ điều này, nguyện cho điều này tiến sâu hơn và sâu hơn,
và hoạt động như một nguyên nhân để đạt được sự giác ngộ vì lợi ích cho tất
cả.”
Phụ giải:
[1] Mental continuum: dòng suối liên tục của hành vi tinh
thần (tâm thức, tỉnh thức) của một chúng sinh, là điều không có sự khởi đầu,
điều tiếp tục ngay cả trong Phật quả và theo Đại thừa, không có chấm dứt. Theo
Tiểu thừa, nó chấm dứt khi một vị A la hán hay một vị Phật thị tịch vào cuối
của cuộc đời mà một cá nhân đạt đến giải thoát hay giác ngộ. Cũng gọi là một
‘dòng suối tâm – mind stream.’
[2] Một sự rèn luyện tâm thức trong điều mà một người tịnh
hóa những thái độ phiền não khỏi mình và rèn luyện để thay thế chúng với những
thái độ xây dựng. Cũng gọi là: những thái độ thanh tịnh, tu tâm, Lojong.
[3] Geshe: 1- Trong truyền thống Kadam, một danh hiệu đặt
cho một vị giáo thọ và thiện tri thức, đặc biệt những ai là đạo sư của rèn
luyện thái độ [tu tâm] lojong. 2- Trong truyền thống Gelugpa, một danh hiệu đặt
cho những ai đã hoàn tất chương trình học vấn của tu viện. Tiến sĩ Phật học:
theo thứ tự từ thấp lên cao của bằng Geshe: Dorampa, Lingtse, Tsorampa và
Lharampa, Lharampa là cao nhất
[4] Perseverance: kiên trì , 1- trong PG Theravada, nhân
tố tinh thần để sử dụng nổ lực, liên tục và can đảm, để hổ trợ kẻ khác và để có
thể thuận tiện cho việc giúp đở. 2- PG Bắc Tông khi phối hợp với khuynh hướng
của tâm giác ngộ (bodhicitta), nó trở thành nhẫn nhục ba la mật. Còn gọi là
hoan hỉ nhẫn – Joyful perseverance.
[5] Dharma: Giáo Pháp hay Pháp – 1- Phương sách ngăn ngừa
mà nếu chúng ta đặt để vào trong sự thực hành hay đạt đến, sẽ ngăn ngừa sự trải
qua khổ đau trong tương lai. 2- Lời dạy của Phật. 3- Bất cứ một hiện tượng nào
hay một ‘vật – thing’.
[6] Puja: cúng dường – Từ Bắc Phạn dùng để chỉ “nghi lễ.” Từ
căn bản, từ này có nghĩa là điệu bộ thờ phượng hay tôn kính bằng cách đưa hai
tay lên, hai lòng bàn tay chấp lại với nhau, độ cao của đôi tay chỉ mức độ cung
kính. Tuy nhiên, từ này trở thành một từ chung trong nghi lễ Phật giáo, trong
một phạm vi thực tập rộng lớn. Mỗi xứ và mỗi truyền thống đều có nghi lễ riêng
của họ.
[7] Responsibility: trách nhiệm – responsiveness: tính tự
nhiên ảnh hưởng tỉnh thức trong sạch (rigpa) – tên là thế, đấy là sự đáp ứng
đến những người khác một cách nổ lực và đồng thời với sự giao tiếp từ bi.
[8] Bodhisattva vows: một số điều để ngăn ngừa khỏi những
hành động nào đấy (mười tám nguyện căn bản và bốn mươi sáu nguyện phụ), nếu
phạm phải sẽ bất lợi cho việc đạt đến giác ngộ và việc làm lợi ích cho kẻ khác.
[9] Budha-nature: Phật tính – đặc trưng địa vị Phật, đặc
trưng gia đình Phật. Một nhân tố có thể quy trên tâm thức tác nhiễm của một
chúng sinh giới hạn mà nó chuyển hóa thành giác ngộ hay cho phép đạt đến giác
ngộ.
[10] Regret: sám hối – sự tỉnh thức bổ xung (nhân tố tinh
thần) nguyện ước không lập lại điều gì đấy, hoặc chính đáng hoặc không chính
đáng, những việc mà một người làm hay ai đấy làm một người nào đó phải làm.
[11] Sự thực hành bảy phần hay bảy chi: tương tự Mười
Nguyện Phổ Hiền, nhưng ở đây chỉ có bảy điều.
[12] Equanimity: bình đẳng – (1) nhân tố tinh thần (sự
tỉnh thức phụ) có một thái độ bình đẳng đối với mọi người. (2) Trong PG
Theravada, khi phối hợp với khuynh hướng tâm giác ngộ (bodhicitta), ba la mật
thứ mười – thái độ mà một người không tính toán trong [sự mong muốn được] đền
đáp trở lại đối với sự giúp đở của mình, thể hiện sự dửng dưng đối với vui và
khổ, và đến bất cứ lợi ích hay tổn hại nào mà mình có thể nhận lãnh.
[13] Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ.
http://www.thuvienhoasen.org/bamuoibayphamtrodaogiacngo.htm
[14] Tám Đề Mục Luyện Tâm.
http://www.thuvienhoasen.org/tamdemucchuyenhoatam.htm
[15] Spiritual Teacher: một thuật ngữ thông dụng cho bốn cấp độ của những vị
thầy Phật giáo: 1- Giáo sư Phật học (Buddhism professor). 2- Giáo thọ giáo lý
(Dharma instructor), 3- Giáo thọ hướng dẫn thiền tập hay nghi lễ (meditation
trainer hay ritual trainer), 4- Đạo sư tâm linh (spiritual mentor).
Daily Life and
Practice of Western Buddhists unedited transcript
Riga, Latvia, July 2008
Tuệ Uyển chuyển ngữ 04-02-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/
introduction/daily_life_practice_western_budd/transcript.html