“Võ sinh” vào khoảng 50 người, là những đứa trẻ lứa tuổi 10 đến 17 –
18. Các em đến “tu luyện” tại chùa từ những mảnh đời bất hạnh, những
trẻ em lang thang trên đường phố, những đứa con bị cha mẹ bỏ rơi... Vào
sống trong chùa, không chỉ được dạy võ, các em còn được học văn hóa,
vi tính, Anh văn... Để rồi khi đến tuổi trưởng thành phải “xuống núi”,
các em tiếp tục thành sinh viên, công nhân, thành những công dân tốt
của xã hội.
Đi tìm “Thiếu Lâm Tự”
Tôi không phải là con nhà võ, nhưng từ lâu tôi rất ngưỡng mộ trường
phái võ Thiếu Lâm và ngôi chùa Thiếu Lâm Tự. Tôi cứ ao ước được một lần
trong đời đặt chân đến ngôi chùa huyền thoại này để xem các thầy chùa
luyện võ. Thiếu Lâm Tự là một ngôi chùa tại Tung Sơn - Hà Nam - Trung
Quốc, là một trong những ngôi chùa xưa nhất của Trung Quốc, nổi tiếng
từ lâu nhờ mối liên hệ với Phật giáo Thiền tông và võ thuật.
Võ thuật của Thiếu Lâm tự được xem là nguồn gốc các phái võ Trung Quốc
hiện nay. Theo truyền thống, các nhà sư Thiếu Lâm phát triển kỹ năng võ
thuật để phòng thủ sự tấn công của kẻ địch, như là một phương tiện giữ
gìn sức khỏe, và như là kỷ luật về tinh thần và thể chất. Sau thành
công vang dội của bộ phim Thiếu Lâm Tự do Lý Liên Kiệt đóng vai chính
vào năm 1982, chùa được nhà nước Trung Quốc cho xây dựng lại và trở
thành địa điểm du lịch chính thức, là nơi hành hương của các nhóm võ
thuật trên khắp thế giới và khách du lịch yêu thích võ thuật.
|
Chùa Long Thạnh. |
Tôi đã từng tự hỏi, không biết có ngôi chùa nào ở Việt Nam là nơi
luyện võ như Thiếu Lâm Tự hay không. Nỗi thắc mắc ấy của tôi đã được
giải đáp khi cách đây vài tháng tình cờ tôi chứng kiến một vụ giựt giỏ
xách trên QL1A, đoạn ngang qua huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Hai cô gái
đi trên một chiếc xe gắn máy đã bị 2 tên cướp chạy xe cùng chiều giựt
chiếc giỏ xách.
Sau tiếng la thất thanh của cô gái, tôi thấy
một chiếc xe gắn máy lao theo 2 tên cướp, rồi chặn đầu xe. Chỉ cần mấy
thế võ là 2 tên cướp bị đo ván, phải quăng giỏ xách lại, lên xe chạy
thục mạng, người thanh niên kia cũng theo buồn đuổi theo. Tôi lân la
hỏi thăm, người “hiệp sĩ” cho biết mình làm công nhân. Còn mấy thế võ
vừa rồi anh học được từ chùa Long Thạnh trong suốt mấy năm anh sống, học
tập và tu luyện tại đây.
Bị câu chuyện hấp dẫn, tôi đã tìm
đến chùa Long Thạnh vào một buổi chiều. Rời thành phố Tân An (tỉnh
Long An) đi về phía bắc hơn 10 cây số, tôi đến thị trấn Thủ
Thừa (huyện Thủ Thừa), đây là vùng rìa của Đồng Tháp Mười,
cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế nông nghiệp vẫn là
chủ đạo. Hỏi thăm chùa Long Thạnh, có người biết người không,
nhưng khi tôi hỏi về lớp học tình thương của thầy Út (tức Đại
đức Thích Quảng Tâm, trụ trì chùa Long Thạnh) thì hầu như
người dân Thủ Thừa nào cũng đều biết rành.
Một cậu
bé đã leo lên xe gắn máy để dẫn tôi đi đến tận chùa. Chùa nằm
trong hẻm sâu, chỉ xe gắn máy vào được, khuôn viên chùa chật
hẹp, qua cổng chùa là tôi bước ngay vào chánh điện. Chánh
điện vắng tanh, từ trước ra sau không một bóng người.
Trở ra cổng, đi thêm mươi bước, rồi rẽ vào hậu liêu của chùa, tôi đã
gặp thầy Út. Theo chân thầy, tôi đến bãi sân rộng láng xi măng
sạch sẽ ở hậu liêu, ở đó hơn 50 học sinh sống trong chùa đang
hàng ngũ chỉnh tề cho giờ học võ. Thầy Út cho biết, đây là số
học sinh có hoàn cảnh đặc biệt trong xã hội, như bị cha mẹ bỏ rơi, trẻ
em lang thang đường phố, không nơi nương tựa, được nhà chùa nhận về
nuôi dạy.
Các em được tạo điều kiện đến trường học văn hóa,
học giáo lý nhà Phật, học võ, học vi tính. Ngoài ra các học
sinh cũng được học tùy thích các môn: Anh văn, viết thư pháp,
múa lân, âm nhạc…
Hiện thầy Út trực tiếp đứng lớp
dạy thư pháp, giáo lý nhà Phật, còn các chương trình học
khác thầy vận động phật tử các nơi về cộng tác đứng lớp.
Hôm nay võ sư bận việc không đến được, thầy Út phải dạy thay.
Bản thân võ thuật đã là đạo – võ đạo, người học võ để phòng
thân và để làm điều thiện. Học võ dưới mái chùa càng phải
nhắm đến cái đích thiện mỹ.
Thầy Út tâm sự: “Học
hết lớp 12 các em sẽ rời khỏi chùa để tự lập, cùng với
kiến thức văn hóa, những kỹ năng sống được tích lũy ở đây sẽ
giúp các em tự tin hơn khi bước vào đời”.
Bước khỏi
đội hình học võ theo yêu cầu của thầy Út, hai anh em Võ Quốc
An (lớp 4) – Võ Quốc Khang (lớp 2) đến chắp tay lễ phép chào
tôi. Cách đây 2 năm, hai cháu được bà ngoại từ huyện biên giới
xa xôi dắt đến gửi vào chùa.
Thầy Út đã đi gần 100
cây số đến huyện Vĩnh Hưng (Long An) để xác minh hoàn cảnh hai
cháu: không cha, mẹ bỏ con cho bà nuôi, cả nhà từ bên Đồng
Tháp qua Vĩnh Hưng làm mướn, không hộ khẩu, một cháu không có
khai sanh… Mỗi năm hai cháu đều được nhà chùa tạo điều kiện cho
về ăn tết với bà ngoại và trở thành hai đứa cháu đầu tiên
của bà biết đọc biết viết (những đứa còn lại ở quê nhà đều
mù chữ).
Một trường hợp hai anh em bất hạnh khác:
T.T.A (lớp 9) và T.T.B (lớp 5, thầy Út yêu cầu giấu tên vì sợ
ảnh hưởng đến cha con các cháu) bị mẹ bỏ từ nhỏ, sống với
cha. Rồi người cha làm ăn hay bài bạc gì đó bị đổ nợ, trước
khi bỏ trốn đã đem gửi hai con nhỏ vào chùa. Hơn bốn năm qua,
chỉ đôi lần người cha đáng thương và đáng trách ấy lén lút
ghé lại chùa thăm hai con nhỏ của mình… Nhìn các cháu miệt mài tập
võ, tôi không thể hình dung cách đó không lâu các cháu còn là trẻ thất
học, lang thang không nơi nương tựa.
Học võ sau khi học văn hóa
Về cơ duyên ra đời lớp học tình thương trong chùa, thầy Út kể:
thầy sinh năm 1961 tại vùng quê nghèo thuộc một xã vùng sâu
huyện Thủ Thừa, nơi chuyện học rất khó khăn, nhiều trẻ thất
học. Lớn lên đi tu, thầy Út cứ canh cánh bên lòng nỗi xót xa
những cảnh đời thất học, sống vất vưởng chung quanh.
Những năm đầu thập niên 1980, huyện Thủ Thừa liên tục bị lũ lụt
nặng, học sinh đi học càng khó khăn, nhiều em phải bỏ học. Xót
xa trước cảnh các em học dở dang, thầy đã giúp đỡ bằng cách cho các
em vào chùa ở để tiện việc đi học. Nhà chùa chật hẹp, lúc đầu chỉ
nuôi được bốn, năm em.
|
Đại đức Thích Quảng Tâm đang tập võ cho các học sinh. |
Tiếng lành đồn xa, các em được gia đình gửi tới ở ngày một
nhiều, trong đó có cả trẻ mồ côi, trẻ sống lang thang. Dù cố gắng
lắm, nhà chùa cũng chỉ có thể cưu mang chừng 10 học sinh, cho
đến một ngày có một chuyện cảm động diễn ra dưới mái chùa.
Có một nữ phật tử từ TP. HCM đến viếng chùa, thấy nhà chùa cưu
mang học sinh nghèo trong điều kiện chật hẹp, thiếu thốn, bà
đã động lòng trắc ẩn, giúp đỡ các em rất nhiều. Chẳng may
người phụ nữ tốt bụng ấy mắc bệnh nan y.
Trước khi qua
đời, bà đã cùng người thân đến chùa làm di chúc, theo đó sau
khi bà qua đời, người thân lấy tài sản của bà để lại giúp
nhà chùa mua đất, cất nhà để nuôi dạy các học sinh tốt hơn.
Số tiền khá lớn của bà để lại đã giúp nhà chùa mở rộng
khuôn viên, xây chỗ ăn ở, học tập rộng rãi, khang trang như hiện
nay. Cũng nhờ đó, chùa đã xây dựng được khu hậu liêu rộng rãi làm nơi
tập võ cho học sinh. Để tưởng nhớ công ơn người nữ phật tử nhân hậu
ấy, thầy Út đã lấy tên bà đặt cho khu học xá: Mái ấm Kim Chi.
Để thầy Út tập võ cho các em, tôi đi dạo khắp khuôn viên chùa. Trong
cả ngôi chùa, lớp học và nơi ăn ở của các học sinh được xây
dựng khang trang nhất.
Chỗ ở của các em, dù là nhà
tường, nền lát gạch men, nhưng không được rộng rãi, nếu như
không nói là khá chật vì ban đầu thiết kế cho chỉ hơn 30 học
sinh ở nội trú, nhưng số học sinh đến quá đông, nên phải kê
giường sát lại, các em chịu chật một chút, nhưng nhờ đó mà
có thêm nhiều cảnh đời bất hạnh được cưu mang.
Các em ở
giường tầng, nơi đó sách vở, dụng cụ học tập, đồ dùng sinh
hoạt được sắp xếp ngăn nắp như trong doanh trại quân đội. Kế bên
nhà ở là nhà bếp với các kệ được lát gạch men màu trắng,
bên trên có những chiếc chảo lá sen thật to được nấu bằng củi
khô.
Cơm và thức ăn đều được nấu bằng những chiếc chảo
lá sen, gồm đậu hũ kho với bí đao, món canh rau, cùng với
tương, chao… Đối diện với khu nhà ở và nhà bếp, nằm kề bên
chánh điện là phòng học được xây cao ráo, rộng rãi, gạch men
sáng loáng. Đây là nơi các học sinh học vi tính, tiếng Anh, thư
pháp... Bàn học là loại theo quy cách mới nhất của ngành
giáo dục, có thể điều chỉnh độ cao. Mười tám bộ máy vi tính
thế hệ mới có kết nối internet được đặt quanh phòng.
Vị Đại đức giỏi vi tính
Kết thúc giờ học võ, trong khi các “võ sinh” tập trung vào các bàn ăn
cơm chiều, thầy Út vào phòng vi tính. Tại đó, có mấy em học sinh
nhỏ, các em từ bên ngoài vào nhờ máy vi tính nhà chùa thực
tập miễn phí. Em Phạm Minh Thái, học sinh lớp 8 Trường THCS
Bình An (xã Bình An, Thủ Thừa), cho biết nhà em cách chùa
chừng ba cây số, hàng ngày em đạp xe đến chùa học vi tính vì
ở Bình An không có ai dạy môn này.
Em Thái đang gặp khó
khăn gì đó trên máy, thấy thầy Út vào lớp, em vội chắp tay
thưa thầy nhờ chỉ giúp. Sau mấy lời giải thích và vài cái
click, thầy Út lại đi lo công chuyện, còn em Thái tiếp tục thực
hành trên máy.
Chuyện thầy Út đến với thế giới vi
tính cũng không kém phần thú vị. Đến cuối thập niên 1990 phong
trào học vi tính mới lan đến huyện Thủ Thừa. Lúc ấy, trong
một lần đi công việc ở TP. HCM, thầy Út được một nhà sư là
bạn tặng chiếc máy vi tính hệ điều hành Window 95.
Với
lòng yêu thích thành tựu khoa học, thầy Út đã mua sách mày mò tự
học, rồi mỗi tối đi về hàng chục cây số theo học lớp vi tính
ban đêm ở thành phố Tân An, thầy trở thành một trong những người
đầu tiên giỏi vi tính ở huyện Thủ Thừa.
Thầy đem
kiến thức vi tính của mình truyền dạy cho học trò nghèo đang
nương tựa trong chùa. Lúc đó, cả thị trấn Thủ Thừa chỉ có hai điểm
dạy tin học, một của tư nhân với học phí rất đắt, một của nhà nước
chỉ mở ban ngày. Nhiều học sinh nghèo muốn đi học vi tính cũng không
được, phần vì học phí quá cao, phần vì không có lớp đêm.
Không chỉ dạy học trò nghèo trong chùa, lớp xóa mù tin học của thầy Út
còn thu nạp cả những đứa trẻ trong thị trấn.
Đến khi một
số trường THCS tại một số địa phương trong huyện được trang bị máy
tính, nhưng giáo viên tin học thì chưa có sẵn, thầy Út đã đi vận động
các trường cử người đến chùa học miễn phí, đồng thời vận động các
phật tử biết tin học ở trên tỉnh về cùng mình đứng lớp. Tiếng lành đồn
xa, cán bộ các cơ quan trong huyện, học sinh nghèo các nơi cũng
đến chùa học vi tính.
Trung tâm tin học chùa Long Thạnh với
chỉ một máy tính đã luôn nhộn nhịp vào mỗi tối. Cũng nhờ vào
tấm lòng của các phật tử, năm 2002 chùa tăng lên được bốn máy vi
tính, để đến hôm nay nhà chùa có đến 18 máy vi tính thế hệ
mới. Hàng trăm người thành thạo vi tính ở huyện Thủ Thừa,
nhiều người trong họ tiếp tục học lên cao để trở thành chuyên
viên vi tính giỏi, đã từng đến với thế giới @ dưới mái chùa
Long Thạnh, mà thầy dạy trong trang phục áo nâu sòng.
Gieo chữ nơi cửa Phật
Dưới mái chùa Long Thạnh có nhiều cảnh đời bất hạnh đến từ
nhiều vùng miền trên cả nước. Cháu Lương Thế Dượt (lớp 7) quê
tận tỉnh Thái Bình có cuộc hành trình đến chùa khá truân
chuyên. Mẹ cháu gửi con vào một ngôi chùa nhỏ ở huyện nhà
Kiến Xương lúc mới sanh. Ngôi chùa này không đủ điều kiện nuôi
dạy, đã gửi cháu đến chùa khác trên tỉnh.
Cứ thế,
cháu được gửi đến tận chùa Long Thạnh. Dựa vào giấy khai
sanh, thầy Út đã tìm đến tận huyện Kiến Xương – tỉnh Thái
Bình và gặp được người cha của bé Dượt bị bệnh tâm thần đang
sống một mình, còn mẹ cháu dắt những đứa con khác đi bán
vé số đâu ngoài Hà Nội.
Cuối cùng thầy Út cũng có
được số điện thoại của mẹ cháu Dượt. Bây giờ thỉnh thoảng
mẹ con cháu Dượt được gặp nhau qua điện thoại của nhà chùa.
Thầy Út đang tìm nguồn tài trợ để cháu Dượt về quê thăm cha
mẹ. Cũng ở tận miền Bắc xa xôi, em N.T.C (lớp 8, huyện Lộc Hà –
tỉnh Hà Tỉnh) được gia đình gửi vào chùa Long Thạnh cách đây
hai năm để mong cháu tiếp tục được học, vì nhà quá nghèo,
cháu lại còn hai em nhỏ.
|
Các học sinh học giáo lý nhà Phật. |
Dù đến từ nhiều nơi, mỗi cháu một hoàn cảnh, nhưng tất cả
học sinh được nhận vào chùa theo một quy trình rất chặt chẽ.
Đích thân thầy Út tìm đến tận gia đình các cháu để yêu cầu
cha mẹ (hoặc người thân) làm đơn xin vào học trong chùa, kèm
theo giấy xác nhận của chính quyền địa phương gia đình quá
khó khăn không có điều kiện cho con đi học.
Rồi thầy
đăng ký cho các em vào học các trường phổ thông gần chùa. Nhà
chùa lo toàn bộ chi phí học tập (học phí, bảo hiểm, sách vở,
bút mực…) cho các em.
Ngoài thời gian ở trường, khi
về chùa các học sinh được sinh hoạt, học tập “giờ nào việc
nấy” giống như trong môi trường quân đội, như: 5g30 thức dậy;
6g30 ăn sáng; 6g45 đến trường; 17g học võ; 18g ăn cơm; tối học vi
tính, Anh văn, 22g tắt đèn ngủ. Long Thạnh là ngôi chùa nghèo,
cùng lúc phải cưu mang năm sáu chục học sinh, khó khăn là điều
không thể tránh khỏi.
Chỉ riêng chi phí học tập hàng
năm cho mỗi em đã năm sáu triệu đồng. Tiền ăn uống cũng ngần
ấy tiền. Phần nhiều các em đều được nhà chùa sắm cho xe đạp
để đi từ chùa đến trường.
Chuyện thiếu trước hụt sau,
nợ học phí, chạy ăn từng bữa thường xuyên xảy ra. Dù vậy,
lứa học sinh này vừa rời khỏi chùa, lứa học sinh sau lại
đến, cửa nhà chùa luôn rộng mở cho những cảnh đời bất hạnh.
Tấm lòng lo cho việc học của một nhà sư đã qui tụ nhiều tấm
lòng vàng khác.
Người dân và các thầy cô giáo ở Thủ
Thừa đã quen với hình ảnh nhà sư mặc áo nâu sồng, cổ đeo tràng
hạt, vai mang túi vải đi họp cha mẹ học sinh, đi đóng học phí, đi
làm thủ tục thi đại học cho những đứa con của nhà chùa. Nhà
chùa chỉ nuôi tới hết lớp 12, sau đó các em phải tự bước vào
đời. Những trường hợp thi đậu lên cao, nhà chùa tiếp tục giúp
bằng cách nhờ các tổ chức từ thiện, các chùa ở TP. HCM nhận
nuôi hoặc cấp học bổng suốt bốn năm đại học cho các em.
“Đầu vào” của lớp học chùa Long Thạnh là những cảnh đời
dưới đáy xã hội, nhưng “đầu ra” lại là những học sinh chững
chạc, nếu không vào được đại học, cao đẳng, các em cũng dễ
dàng lập thân bằng hành trang kiến thức và kỹ năng sống tích
lũy từ nhà chùa.
Đã có hơn mười đứa trẻ từng nương nhờ
cửa Phật tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định, nhiều em thành
đạt. Hàng chục cháu khác học các trường nghề, trở thành công
nhân, người bán hàng, tài xế…, tất cả đều hòa nhập tốt vào
xã hội.
|
Thầy Út và các võ sinh nhí. |
Dù bay cao, bay xa, nhưng ngôi chùa trong hẻm nhỏ luôn là chỗ
đi về thăm viếng của các cháu. Mới đây, một trẻ mồ côi sau khi
rời khỏi chùa đã học xong Đại học Bách khoa TP. HCM, tốt
nghiệp loại giỏi, có việc làm ổn định, thu nhập tốt, trở về chùa
Long Thạnh nhờ thầy Thích Quảng Tâm đứng ra chủ trì cưới vợ cho
mình. Hầu hết các cháu khi rời khỏi chùa, có việc làm ổn
định, đều đứng ra vận động quyên góp cho nhà chùa tiếp tục
duy trì và mở rộng lớp học, để ngày càng có nhiều những đứa
trẻ bất hạnh khác tìm thấy tương lai, hạnh phúc.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Rời khỏi phòng vi tính, trong khi chờ thầy Út, tôi tiếp tục
lang thang trong khuôn viên nhà chùa và tôi lại tiếp tục bị bất
ngờ. Trong khi chỗ ở, nhà bếp, lớp học dành cho học sinh nơi
nào cũng được xây dựng khang trang, thì chỗ ở của thầy trò sư
trụ trì chỉ là căn nhà lụp xụp nằm ở góc khuất trong khuôn
viên chùa. Ban đầu tôi cứ ngỡ đó là kho chứa đồ đạc nhà
chùa. Đến khi thầy Út chính thức tiếp và làm việc với tôi
trong “nhà kho” ấy, tôi mới biết đó là nơi ở của hai thầy trò
sư trụ trì.
Họ dành tất cả những gì tốt đẹp nhất
để phụng sự đức Phật và để chăm sóc, dạy dỗ học sinh, còn
mình sống giản dị, khiêm tốn, nếu như không nói là khắc khổ.
Ngồi trò chuyện với thấy Út, tôi mới nhớ ra mình đã gặp thầy một lần
khi đi dự Hội nghị tuyên dương các tấm gương điển hình học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở tỉnh Long An. Trong
số những tấm gương xuất sắc nhất được tuyên dương trong ngày hôm
ấy có một nhà sư.
Tại hội nghị ấy Ban Tổ chức không thể
giới thiệu đầy đủ về từng tấm gương, vì vậy mà tôi không thật sự quan
tâm tới thầy Út giữa bao nhiêu tấm gương điển hình khác. Bây giờ tôi
mới được biết, thầy Út là 1 trong 15 tấm gương điển hình của tỉnh Long
An được Trung ương khen thưởng và tham dự đoàn đại biểu tỉnh đi dự Hội
nghị toàn quốc sơ kết 4 năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở Hà Nội.
Tôi rời khỏi chùa
Long Thạnh khi đã hơn 7 giờ tối, bên ngoài trời đang mưa rỉ
rả, không có dấu hiệu sẽ sớm tạnh. Khi đến thăm chùa, tôi chỉ chờ
mong được thấy cảnh học võ như Thiếu Lâm Tự. Đến khi ra về, tôi cảm
thấy còn thú vị hơn thế.
Hơn 50 học sinh mỗi người một vị trí
học tập, chăm chỉ và trật tự, giống như lúc chiều các em trật tự trên
sân luyện võ. Sẽ hạnh phúc hơn nếu giờ này các cháu được ngồi
học bài trong mái ấm gia đình, bên cha mẹ, ông bà. Nhưng cuộc
đời đã dồn sự mất mát về những mái đầu hãy còn xanh này.
Vậy mà, nhờ tấm lòng của một nhà sư, sự yên tĩnh của một ngôi
chùa đã và đang giúp cho bao cảnh đời bất hạnh khi lớn lên ít
bị thương tổn nhất.
Nam mô A Di Đà Phật!
Theo Song Kỳ - Phunutoday