24/01/2014 07:37 (GMT+7)
Mạnh Tử nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn”. Tuân Tử nói: “Người tàn ác cũng có thể trở thành ông Vũ”. Thường Bất Khinh Bồ Tát nói: “Tôi chẳng dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật” là vì ai cũng có thể là thánh hiền, cũng có thể thành Phật. |
23/01/2014 13:32 (GMT+7)
Phàm người lúc lâm chung tứ đại chia lìa, mọi nỗi khổ dồn dập, nếu chẳng phải là người đã chứng tam muội từ lâu ắt chẳng dễ gì tự chủ. Huống hồ quyến thuộc chẳng hiểu lợi hại, thường dùng tình cảm thế gian phá hoại chánh niệm, sắp thành công lại bị thất bại. Khổ thay! Ðau thay! Nếu trong khi ấy, được người khác khai thị, hướng dẫn trợ niệm, dẫu là người bình sinh chưa từng niệm Phật cũng dễ sanh lòng tin. Tai nghe Phật hiệu, tâm duyên Phật cảnh, nhất tâm chánh niệm liền có thể cảm được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Phải đặc biệt chú ý lúc quan trọng tối khẩn yếu này! Ở đây, tôi trích lục các pháp yếu lo liệu việc lâm chung của các cổ đức và nghi thức trợ niệm, khuyên mọi người hãy tuân theo ngõ hầu được vãng sanh. |
23/01/2014 13:31 (GMT+7)
Theo định luật Nhân-Quả, dù là Thánh nhân cũng phải trả nghiệp tích lũy từ khi còn mang xác phàm. Việc giải nghiệp của bậc Thánh, hoặc do tự thân chọn lựa hoặc do Đạo Lực hóa giải biến nặng thành nhẹ, nghiệp nhẹ sẽ được hòa tan vào công hạnh vị tha. Tuy nhiên, Đạo Lực của một cá thể khó mà chuyển hóa cộng nghiệp của một tập thể, nhưng Đạo Lực một cá thể có khả năng tác động tâm thiện của một tập thể, giúp tập thể ý thức về cộng nghiệp để chuyển hóa cộng nghiệp theo phương hướng tuệ giác |
23/01/2014 07:26 (GMT+7)
Theo quan điểm đạo Phật con người sau khi chết không phải là mất hẳn, đó chỉ là một trạng thái biến dạng của nghiệp thức. Thể xác phân tán nhưng phần tâm thức tiếp tục cuộc truy cầu trong sự khao khát được thõa mãn về đối tượng ( cảnh giới) tương ứng. Và cứ như thế con người chúng ta khi chưa đạt đến Thánh vị, thì mãi luẩn quẩn trong cuộc rượt bóng bắt hình nơi trò chơi luân hồi huyễn mộng hư hư thực thực này. |
21/01/2014 00:15 (GMT+7)
Từ cõi Ta bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn 10 muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Vị Giáo chủ ở thế giới ấy là Phật A Di Đà thường hay nói Pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu lưu (tường hoa), 7 lớp lưới giăng, 7 hàng cây xinh đẹp, có "hồ thất bảo" đầy "nước tám công đức". |
19/01/2014 09:35 (GMT+7)
Trong kinh Phật dạy: "Người tu hành chân chính, có ai đến phá phách làm trở ngại thì người đó bị tội phải đọa địa ngục.” Như vậy chúng ta tu hành chân chính mà có người lại chửi bới phá phách mình thì người đó hết sức vì mình, hết sức thương mình họ mới dám làm, vì biết phải đọa địa ngục. Nên chúng ta phải quý kính người đó hơn. Người ấy đã gan dạ dám vào địa ngục để giúp cho mình tiến lên, thì còn gì hơn nữa ! |
18/01/2014 21:52 (GMT+7)
Ngày nay, một nghìn người niệm Phật thì có chín trăm chín mươi chín người niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự thì một chữ Chết thường ở trong tâm, tự mình luôn kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái chết, luôn mong cầu sớm được vãng sanh về Cực Lạc; đây là người niệm Phật thật sự “chán lìa Ta-bà, thích cầu Cực Lạc”. Như thế, một nghìn người niệm Phật, nghìn người vãng sanh; vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh, không một người nào mà không sanh về Tây phương. |
17/01/2014 01:01 (GMT+7)
Trên ngực các pho tượng Phật, trên những bìa sách hay trong những trang kinh sách Phật giáo, ta thường thấy hình chữ VẠN. Cách viết giống như hai chữ S bắt chéo thẳng góc với nhau, trông như cái chong chóng đồ chơi của trẻ em. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy có hai lối viết khác hẳn nhau theo hướng từ ngoài nhìn vào: |
14/01/2014 01:11 (GMT+7)
Đời người ở thế gian đều không tránh khỏi cái khổ của bệnh dịch và chết. Khi những thứ khổ đó xuất hiện, duy chỉ có buông xả vạn duyên, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Nếu thấy bị quá mệt, gần tắt thở, thì chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật, nhất tâm cầu Phật từ bi tiếp dẫn quí vị vãng sanh Tây Phương. |
10/01/2014 06:24 (GMT+7)
Đời sống thế gian là đời sống hưởng thụ ngũ dục lạc (cũng gọi ngũ dục trưởng dưỡng, gồm có tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, địa vị, ăn uống hưởng thụ, ngủ nghỉ), tùy nhân duyên phước báo mà mỗi cá nhân có điều kiện hưởng thụ ngũ dục nghèo nàn hay sung mãn, con người xem hưởng thụ ngũ dục như là nhu cầu của đời sống và là điều kiện mang lại hạnh phúc. |
08/01/2014 07:44 (GMT+7)
Hầu như ai ai trong chúng ta cũng đã từng nghe đến hai từ “Nhân” và “Quả”. Nếu làm lành thì sau này sẽ hưởng một quả báo lành, an vui và hạnh phúc. Ngược lại, nếu làm việc ác thì quả báo đau khổ, trầm luân sẽ không thể nào tránh khỏi. |
05/01/2014 15:50 (GMT+7)
Có hai vị giữ địa vị quan trọng trong Thiền tông là tổ Bồ Đề Đạt Ma (?-532) và Lục tổ Huệ Năng (638-713). Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã có công đặt nền móng cho ngôi nhà Thiền tông, và tổ Huệ Năng được coi như người đã xây cất nên ngôi nhà kỳ diệu đó để còn lưu truyền đến ngày nay. Cuốn Pháp Bảo Đàn kinh ghi về cuộc đời của tổ Huệ Năng cùng những bài pháp của tổ rất đầy đủ. |
03/01/2014 08:53 (GMT+7)
Bất cứ ai hiện hữu trong cuộc đời này cũng đều có thể phạm phải những lỗi lầm, sai sót dù ít hay nhiều. Bởi khi tâm ý mê mờ, thiếu sáng suốt thì mọi hành động, nói năng của ta rất dễ dàng vấp phải những lầm lỡ, sơ suất gây khổ đau cho bản thân và ảnh hưởng không tốt đến người khác. Đó là lẽ đương nhiên. Do vậy, thành tâm ăn năn các tội lỗi mà mình đã tạo ra, và lập nguyện đừng để cho những hành vi sai trái tái diễn là việc làm đáng được mọi người trân trọng, quý mến và noi theo |
01/01/2014 21:44 (GMT+7)
Nếu chúng ta luôn tự nhiên Thiền và Sống Thiền. Nếu chúng ta luôn luôn học hỏi thật sự từ những kinh nghiệm bản thân thì chúng ta không phải khổ. |
30/12/2013 09:18 (GMT+7)
Dưới đây là 32 vần kệ, một con số kỳ diệu, là những cảm xúc chân thành phóng chiếu tự nhiên từ trái tim tôi. Những lời thỉnh cầu liên tục của Otse Yana, một người bạn tốt, là thuận duyên và tâm từ bỏ mãnh liệt đối với sự vô thường trong tâm tôi là nguyên nhân sâu xa khiến tôi, Ngawang Lodro Tsungmed, biên soạn bài kệ này vào ngày 27 tháng Giêng năm 1964. Cầu mong đó là điều kiết tường! |
28/12/2013 10:06 (GMT+7)
Tà dâm là sự dâm dục với người không phải hoặc chưa phải vợ hoặc chồng của mình. Hành vi này trời đất không dung, quỷ thần phẫn nộ. Ngay khi một ý niệm dâm dục khởi phát, thậm chí trước khi hành vi nào đó xảy ra, đã là phạm tội lỗi lớn (tạo nghiệp to lớn). Vợ chồng là người được gia đình cha mẹ đồng ý cưới hỏi, và pháp luật của đất nước công nhận. Nhưng giữa vợ chồng, nếu chìm đắm trong dâm dục cũng phạm tội tà dâm.Nếu phạm lỗi, không chỉ người đó đã gây ra tai họa lớn cho chính mình, mà còn mang tới bất hạnh cho con cái họ. |
25/12/2013 07:29 (GMT+7)
Câu
hỏi nêu lên có vẻ rất đơn giản, nhưng thật ra lời giải
đáp khá phức tạp, bởi vì không phải « theo » Phật giáo
là đương nhiên trở thành một Phật tử. Có những người
chưa bao giờ đến chùa, không ăn chay, cũng chẳng hiểu Đạo
Pháp là gì, nhưng vẫn tự nhận là người « theo » Phật
giáo, chẳng qua vì họ tự nhận diện dựa vào truyền thống
gia đình, hoặc cứ nhận bừa để chọn cho mình một vị
trí tín ngưỡng trong xã hội. |
25/12/2013 07:24 (GMT+7)
Nếu chỉ vì ngũ
quan không thể cảm nhận được mà ta quả quyết rằng Niết Bàn là hư vô, là không
không, không có gì hết, thì cũng phi lý như người mù kết luận rằng trong đời
không có ánh sáng, chỉ vì không bao giờ anh ta thấy ánh sáng. Trong ngụ ngôn
"Rùa và Cá" được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói
với rùa, cá dõng dạc kết luận rằng không có đất, bởi vì có những câu hỏi của cá
đều được rùa trả lời là "không". |
25/12/2013 07:19 (GMT+7)
Niết bàn, nirvana (S), nibbana (P), trong Sanskrit
và Pali có nghĩa bóng là, một "thể trạng dập tắt". Hình ảnh của một
ngọn lửa đã bị dập tắt qua việc không còn nhiên liệu nữa. Trong cách thường
dùng nhất, lửa tượng trưng cho những khổ đau tái diễn không thể kiểm soát của
luân hồi; trong khi nhiên liệu tượng trưng cho những cảm xúc phiền não, và nghiệp tượng trưng cho nhiên liệu. Thuật ngữ
Tây Tạng cho "niết bàn" có một ý nghĩa khác. Nó có nghĩa bóng là một
"thể trạng vượt khỏi khổ đau", liên hệ đến một tình trạng thoát khỏi
khổ đau. |
25/12/2013 07:18 (GMT+7)
48
Lời Nguyện của Phật A Di Đà
Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh |
|