Chương
26-37
-oOo-
Chương 26
I. Chánh Văn
Thiên thần dâng cho
Ðức Phật một ngọc nữ với ý đồ phá hoại tâm ý của
Phật. Phật bảo: "Túi da ô uế, người đến đây làm
gì? Ði đi, ta không dùng đâu".Thiên thần càng thêm kính
trọng, do đó mà hỏi về ý của Ðạo. Ðức Phật vì ông
mà giảng pháp. Ông nghe xong, đắc quả Tu Ðà Hoàn.
II. Ðại
Ý
Chương này nói về thái
độ dứt khoát của Ðức Phật đối với nữ sắc.
III.
Giảng Nghĩa
1. Chú thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Thiên:
tiếng Phạn là Deva, dịch âm là Ðề Bà. Nghĩa là Quang Minh,
Tự Tại, Tối Thắng.
Thiên thần:
những chúng sinh ở cõi thù thắng vui sướng hơn cõi người.
Ngọc nữ:
chỉ người con gái đẹp.
2. Giải thích nội
dung:
Từ chương 21 cho đến
chương này, đề cập đến cái nguy hiểm của sự đam mê
danh lợi, tài sắc. Ðối với sắc dục, Ðức Phật đặc
biệt chú trọng qua các chương 23, 24, 25. Ðến chương này, tiêu
biểu cho thái độ của người tu hành đối với nữ sắc,
hay nói cách khác, là tiêu biểu cho phương pháp quán chiếu để
đoạn trừ lòng ham muốn nữ sắc. Khi một vị thiên thần dâng
cho Ðức Phật một cô gái đẹp với ý định nhiễu loạn tâm
của Phật, cũng có thể là thử ý của Ðức Phật. Khi nhìn
cô gái đẹp, Ngài liền bảo: "Cái túi da chứa những ô
uế đến đây mà làm gì?" Qua đó, ta nhận thấy quan điểm
của Ðức Phật đối với đối tượng sắc đẹp, cái mà làm
cho nhân loại đảo điên, Ðức Phật thấy chỉ là túi da
chứa đụng đồ ô uế. Trong các kinh tạng Nikaya, A Hàm cũng
thống nhất phương pháp quán chiếu để đối trị lòng mê
sắc là phương pháp quán bất tịnh. Ví dụ, khi nhìn một cô
gái đẹp thì tâm hỷ lạc khởi lên, khi đó quán chiếu
rằng người con gái đẹp kia sẽ bị xấu, răng rụng, tóc
bạc, thân thể hôi hám ... tức nhìn thấy được mặt trái
của cô gái đẹp.
Tâm tham đắm nữ sắc,
do không thấy rõ bản chất của sắc đẹp là ô uế, khi
thấy được sự thực ấy, tâm liền tỉnh ngộ. Trong Kinh
Tạng, còn đưa ra một số phương pháp đoạn trừ tâm tham ái
nữ sắc như: Quán nữ sắc là vô thường, quán nữ sắc là
nguy hiểm, quán người nữ như là mẹ, là chị, là em gái,
hoặc khi bị hình ảnh của nữ sắc chi phối thì hướng tâm
vào các đối tượng khác... Phương pháp trực tiếp là phương
pháp quán thẳng vào thân thể của nữ sắc để thấy thân
thể của nữ sắc là ô uế, bất tịnh.
Ðối với một người
không bị nữ sắc làm cho dao động là một người đáng kính,
nên vị thiên thần mới tỏ lòng tôn kính hỏi về Ðạo,
nhờ đó mà giác ngộ.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Thái độ của Ðức
Phật đối với nữ sắc là thấy rõ được bản chất của
nữ sắc là ô uế.
2) Phương pháp đoạn
trừ tâm tham ái nữ sắc là quán thân thể của nữ sắc là
bất tịnh.
Chương 27
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người thực hành theo Ðạo như khúc gỗ trên mặt nước
trôi theo dòng nước. Nếu không bị người ta vớt, không
bị quỷ thần ngăn trở không bị nước xoáy làm cho dừng
lại và không bị hư nát, ta đảm bảo rằng khúc cây ấy
sẽ ra đến biển. Người học Ðạo nếu không bị tình
dục mê hoặc, không bị tà kiến làm rối loạn, tinh tấn
tu tập đạo giải thoát, ta bảo đảm người này sẽ đắc
Ðạo".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy không
chấp trước các duyên thì đắc Ðạo.
III.
Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ
ngữ, thuật ngữ:
Tà kiến:
Pali gọi là Ditthi, từ ngữ căn Dis là thấy, nhận thức
Ditthi là thấy, nhận thức không đúng với thể tánh, ý
kiến sai lạc, sai lầm.
Tinh tấn:
(Viriya) còn gọi là tinh cần là một trong những tâm lý
thiện, là siêng năng chuyên cần hướng thiện.
2. Giải thích nội
dung:
Chương này có xuất xứ
trong kinh Tương ưng, phần khúc gỗ nội dung như sau: "Ðức
Thế Tôn ngụ ở Kosambi trên bờ sông Hằng, ngài thấy một
khúc gỗ lớn trôi theo dòng nước liền bảo các Tỳ kheo
rằng: "Các thầy có thấy khúc gỗ không? Nếu khúc gỗ
không đâm vào bờ bên này, không đâm vào bờ bên kia, không
chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không
bị loài người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không
bị mắc vào xoáy nước. không bị mục ở bên trong thì khúc
gỗ ấy sẽ hướng về biển, ra đến biển. Cũng vậy các
Tỳ kheo, nếu không bị đâm vào bờ bên này... thì vị Tỳ
kheo ấy hướng về Niết bàn, nhập vào Niết bàn" ...
"Bờ bên này đồng nghĩa với 6 nội xứ, bờ bên kia đồng
nghĩa với 6 ngoại xứ. Bị chìm giữa dòng đồng nghĩa với
lòng tham. Bị mắc cạn trên miếng đất nổi đồng nghĩa
với ngã mạn. Bị người nhặt lấy là Tỳ kheo sống quá liên
hệ với cư sĩ, bị trói buộc mình vào công việc của họ.
Bị phi nhân nhặt lấy là Tỳ kheo tu tập với ước nguyện
sinh lên cõi trời. Bị mắc vào nước xoáy là hưởng thụ 5
dục. Bị mục nát từ bên trong là Tỳ kheo sống theo tà
giới, ác pháp, đáng nghi ngờ, không phải Sa môn mà hiện tướng
Sa môn, lợi dụng hình dáng Sa môn để mưu cầu danh
lợi".
Lúc bấy giờ, người chăn
bò là Nanda đứng cạnh đó không xa, bạch Phật là sẽ không
bị đâm vào bờ bên này ... (như trên) và xin xuất gia theo
Phật.
So sánh giữa Kinh Tứ
Thập Nhị Chương với kinh Tương Ưng, ta thấy như sau:
1- Kinh Tứ Thập Nhị
Chương tóm gọn có 5 điều, trong khi đó kinh Tương Ưng đến
8 điều.
2- Kinh Tương Ưng thêm
2 là chìm giữa dòng và mắc cạn trên miếng đất nổi, điều
1 và điều 2 chỉ là 1 mà thôi, giống như bên Kinh Tứ
Thập Nhị Chương, điều 11 chẳng tấp hai bên bờ.
3- So sánh giữa khúc
gỗ và người tu hành trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương chỉ
đưa ra 3 điều mang tính tổng quát chứ không ăn khớp với
từng điều của khúc gỗ. Ba điều đó là không bị tính
dục mê hoặc và không bị tà kiến làm rối loạn, tinh
tấn tu đạo giải thoát.
4- Kinh Tương Ưng đưa
ra 8 điều kiện của khúc gỗ ra đến biển, song song 8 điều
kiện một vị Tỳ kheo đến Niết bàn, những điều này khá
rõ.
Tóm lại, chương này trình
bày những điều kiện để một vị xuất gia đạt đến
Niết bàn. Ðó là những tiêu chuẩn tu tập để đo lường tà
chánh và trình độ tu tập của một vị Tỳ kheo. Mặt khác,
kinh cũng nói lên sự khó khăn là điều tất yếu của con người
tu tập cần phải vượt qua mới đắc Ðạo. Luận bảo Vương
Tam Muội đã nói: "Ðối với sự nghiệp giải thoát đừng
mong không bị chướng ngại, vì không bị chướng ngại thì
chí nguyện không kiên cường".
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này có xuất
xứ trong Tạng A Hàm và Niyaka (phẩm Khúc gỗ).
2) Người xuất gia với
mục đích giải thoát sinh tử phải biết hướng đi của mình
và điều quan trọng là phải tinh tấn nỗ lực vượt qua các
chướng ngại.
3) Nên biết rằng con
đường nào cũng có trở ngại, vì vậy khi chướng ngại đến
đừng sợ hãi mà bỏ cuộc.
Chương 28
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Phải thận trọng đừng chủ quan với tâm ý của ông.
Tâm ý của ông không thể tin được, (vì vậy) hãy thận
trọng đừng gần nữ sắc ; gần gũi nữ sắc thì tai họa
phát sinh. Khi nào chứng quả A La Hán rồi mới có thể tin vào
tâm ý của ông".
II. Ðại
Ý
Người tu hành chưa đoạn
tận ái dục thì phải cảnh giác đối với nữ sắc.
III.
Giảng Nghĩa
Mặc dù các chương trước
phân tích những khía cạnh nguy hiểm khác nhau của tình dục,
nhưng chương này vẫn tiếp tục đặt vấn đề đối với
nữ sắc. Ðiểm đặc biệt của chương này là cảnh giác,
những người tu tập thường chủ quan, ỷ lại vào khả năng
của mình, chưa thấy hết sự nguy hiểm tế nhị của nữ
sắc. Hai mục đích của chương này là:
1- Cảnh giác các bậc
Thánh hữu học (Tu Ðà Hoàn cho đến A Na Hàm) có thể rơi vào
chủ quan khi có những tiến bộ tâm linh cao, vội vã cho
rằng mình đã vượt qua uy lực của nữ sắc. Sự đoạn
tận ái nhiễm phải là A La Hán.
2- Cảnh giác những người
tu tập còn ở địa vị phàm phu, đừng tự cao, tự đại,
tự mãn, với một chút ít công phu mà coi thường nữ sắc,
sẽ bị lôi cuốn bởi nữ sắc, uổng phí công phu tu tập.
Ngoài ra, chương này cho
thấy tâm ý của chúng sinh khó chế ngự, khó làm chủ, nhất
là đối với nữ sắc. Bản năng dục tính của con người
chi phối tâm ý rất mạnh, khuynh hướng đi theo tiếng gọi
của bản năng làm chướng ngại lộ trình giải thoát. Về
mặt nổi, mặt thô, tâm ý có tu tập có thể làm lắng dịu
dục tình, nhưng dục tình sẽ lén lút hoạt động trong tư
thế tiềm ẩn tế nhị, khó nắm bắt, chỉ cần có cơ hội
là nó bộc phát. Cơ hội đó là khi gần gũi đụng chạm
với nữ sắc. Vì vậy, rất nhiều hành giả thất bại vì
xem thường nữ sắc và các mối quan hệ với nữ sắc.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này cảnh giác
người tu hành đứng chủ quan đối với tâm ý của mình,
nhất là đối với nữ sắc.
2) Cần phải chánh niệm
tĩnh giác đối với hoạt động của tâm ý. Ðể giúp cho
sự chánh niệm có hiệu quả nên tránh xa các đối tượng
hấp dẫn như nữ sắc.
Chương 29
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
" Phải thận trọng đừng nên nhìn ngắm nữ sắc, cũng
đừng nói chuyện với nữ nhân. Nếu (bắt buộc) phải nói
chuyện với họ thì phải giữ tâm chánh trực và suy nghĩ
rằng: "Ta làm Sa môn sống giữa cuộc đời ô nhiễm,
phải như hoa sen không bị bùn làm ô nhiễm. Nghĩ rằng người
(nữ) già như mẹ, người (nữ) lớn tuổi (hơn mình) như
chị, người (nữ) nhỏ (hơn mình) như em gái, đứa bé (gái)
như con, sinh khởi tâm cứu độ họ được giải thoát. Như
vậy liền diệt được ý niệm xấu đối với nữ nhân
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy phương
pháp đề phòng niệm xấu và diệt trừ ý niệm xấu đối
với nữ nhân.
III.
Giảng Nghĩa
Tiếp theo chương 28, chương
này Ðức Phật vẫn cảnh giác người tu hành đề phòng nữ
sắc, nhưng khác với chương trước, chương này đề cập đến
cách thức đối phó với người nữ, có 2 phần:
1- Ðối với người
nữ, không nên nhìn ngắm và nói chuyện. Ðây là phương pháp
tiêu cực, nhưng có hiệu quả đối với những tâm tư yếu
đuối. Ðiều tốt cho một người dễ phạm tội là cách ly môi
trường phạm tội. Thường thì không có cảnh (đối tượng)
thì tâm không được kích thích, gợi ý nên ít bị lôi
cuốn, giao động. Nếu tâm ý tác ý mà không có đối tượng
thực tế, cũng đễ chế ngự hơn.
2- Khi phải tiếp xúc
với người nữ, thì phải giữ tâm ngay thẳng và suy nghĩ
rằng:
- Giống như hoa sen ở
trong bùn mà không nhiễm mùi bùn, ta là Sa môn giữa cuộc đời
ô trược không bị nhiễm ô. Ðây là cách tự kỷ ám thị
để nâng cao tâm hồn, rũ bỏ niệm xấu.
- Quán tưởng thân
thuộc, coi người già như mẹ, lớn như chị, nhỏ như em, bé
như con. Ðây là phương thức chuyển hóa tư tưởng mang tính
tích cực; coi họ là đối tượng thân thuộc cần được
giúp đỡ, cần được cứu khổ.
Trong kinh Trung Bộ (Kinh An Trú Tâm) cũng có đề
ra phương pháp quán tưởng để chuyển hóa dục tâm, gồm 5 cách:
1- Khi có tư duy liên hệ
đến dục... khởi lên, cần phải tác ý đến một đối tượng
khác, hướng tư duy qua một đối tượng khác để xóa đối
tượng dục. Ví như người thợ mộc dùng một cái nêm nhỏ
đánh bật một cái nêm khác (ra khỏi khúc cây).
2- Nếu không có kết
quả, tư duy dục vẫn đeo bám thì cần phải quán sát đến
sự nguy hiểm của các dục đó. Ví như một người bị một
xác rắn, một xác chó hay một xác người đeo vào cổ, người
ấy ghê tởm vứt ra.
3- Quán sát nguy hiểm
của các dục vẫn không có kết quả, thì nên bỏ qua, đừng
nên nghĩ đến đối tượng dục đó nữa; giống như người
không muốn nhìn một vật, họ quay mặt đi chỗ khác.
4- Nếu vẫn không có
kết quả, thì quan sát hành tướng của dục, sự sinh khởi,
sự an trú của dục, dần dần dục niệm tan biến, như người
đang đi tự hỏi sao ta đi mau? nên đi chậm lại, người ấy
đi chậm lại ...
5- Nếu vẫn không có
kết quả, dục niệm vẫn khởi lên, phải nghiến răng, dán
chặt lưỡi lên nóc họng, dùng tâm chế ngự tâm, nhờ vậy
dục niệm được đoạn trừ tức là sử dụng ý chí tối đa.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Phương thức đề phòng
niệm xấu đối với nữ nhân là không nên nhìn ngắm, nói
chuyện với người nữ.
2) Phương thức chuyển hóa
tư duy khi quan hệ với người nữ là:
- Tự ví mình như hoa sen
gần bùn mà chẳng nhiễm mùi của bùn.
- Quán tưởng người
nữ như là thân nam của mình, là đối tượng để mình cứu
độ.
Phương pháp diệt trừ
niệm xấu đối với nữ nhân như trên, tích cực và hiệu
quả đối với con đường tu tập.
Chương 30
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Là người tu hành phải coi mình giống như kẻ mang cỏ
khô, thấy lửa đến phải tránh, người học Ðạo thấy các
đối tượng dục lạc phải tránh xa".
II. Ðại
Ý
Người tu hành phải tránh
xa dục lạc.
III.
Giảng Nghĩa
Chương này Ðức Phật
đề cập một thí dụ mang tính cảnh giác cao, là người tu hành
như kẻ mang cỏ khô thấy lửa phải tránh. Cũng vậy, khi
thấy lửa dục lạc cần phải tránh xa, nếu không sẽ bị cháy
một cách nhanh chóng. Thí dụ này gây ấn tượng mạnh và rõ
về mối nguy hiểm của dục lạc.
Người tu hành từ bỏ
ái dục, xuất gia học Ðạo, tâm ái dục bị trấn áp, bị
ức chế. Ðiều đó không có nghĩa là ái dục đã được đoạn
trừ. Ngược lại, tâm ái dục hoạt động tiềm ẩn, càng
ức chế nó càng có sức mạnh sẵn sàng bộc phát, cho nên
rất nguy hiểm. Nếu người gần gũi với môi trường ái
dục thì sẽ khó kiềm chế tâm ái dục. Giống như người
mang cỏ khô mà đứng gần lửa thì họa cháy thân tất xảy
ra.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
Thí dụ người mang cỏ
khô phải tránh xa lửa vừa đúng về mặt thực tế vật
chất và thực tế tâm lý. Cảnh giác sự nguy hiểm của dục
lạc đối với người tu hành như vậy là rất cao và rất chính
xác.
Chương 31
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Có người lo lắng vì lòng dâm dục không dứt nên
muốn đoạn âm". Phật dạy rằng: "Ðoạn âm không
bằng đoạn tâm. Tâm như vị công tào, công tào nếu ngừng
thì kẻ tùng sự đều ngừng, tâm tà không ngưng thì đoạn
âm có ích lợi gì? Phật vì Ông mà nói kệ: "Dục sinh
từ nơi ý. Ý do tư tưởng sinh, hai tâm đều tịch lặng, không
mê sắc cũng không hành dâm". Phật dạy: "Bài kệ này
do Ðức Phật Ca Diếp nói".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật dạy: "Dâm
dục do nơi tâm sinh, tâm ngưng thì dục ngưng, không nên đoạn
sinh dục bên ngoài, không có hiệu quả".
III.
Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ
ngữ, thuật ngữ:
Ðoạn âm:
chặt dứt dương vật, bộ phận sinh dục.
Công tào:
người đứng đầu một nha quan công sở.
Phật Ca Diếp:
là một Ðức Phật trong 7 Ðức Phật quá khứ. Phật Ca Diếp
là Phật thứ 6, Phật Thích Ca là Phật thứ 7.
2. Giải
thích nội dung:
Chương này nói lên sự
kiện độc đáo là có người tu hành thấy được cái nguy
hiểm của dục, nhưng dục tâm vẫn cứ tiếp diễn, sinh lý
vẫn đòi hỏi; vì vậy, họ nghĩ rằng phải chấm dứt sự
đòi hỏi sinh lý mới tu hành được. Họ nghĩ đến nguyên nhân
trực tiếp là bộ phận sinh dục cần phải đoạn trừ. Coi
đó như là một phương pháp đoạn trừ lòng dâm dục. Ðức
Phật phản đối phương pháp này, vừa nguy hiểm, vừa vô ích.
Sai lầm căn bản của người
áp dụng phương pháp đoạn âm là dục tâm do tác động bên
ngoài. Thực ra, tâm mới là chủ nhân của dục, chứ không
phải vật. Mặc dù trong Phật giáo nói đến mối quan hệ
mật thiết giữa tâm và vật, nhưng để cải tạo hoàn cảnh
trước hết phải cải tạo tâm lý.
Người đoạn âm mà tâm
không đoạn sẽ xảy ra mâu thuẫn nội tại với thực tế.
Mặt khác, người đoạn âm thường bắt đầu mặc cảm tội
lỗi, có cái nhìn lệch lạc về sinh lý. Cuối cùng sinh lý
sẽ làm lệch lạc tâm lý và trở thành bệnh lý.
Người chủ trương đoạn
âm là kết quả của giáo dục một chiều và cực đoan. Sự
lo lắng thái quá, sự hiểu biết về tâm sinh lý hạn chế và
cuối cùng là áp lực của một ý tưởng cực đoan.
Như bài kệ kết luận:
Lòng dục sinh từ nơi ý, tức là do tâm ý phân biệt ngã
chấp mà sinh ra tham muốn. Ý do tư tưởng sinh, tức là do tâm
sở tư và tưởng sinh. Tác dụng chấp ngã và bản năng dục
tính do nghiệp tạo tác (tư) và vọng tưởng (tưởng) hay tri
giác mà phát triển. Hai tâm đều tĩnh lặng là tâm sở Tư và
Tưởng đều tĩnh lặng thì không còn bị sắc đẹp làm cho
rung động và cũng không còn hành vi dâm dục, nghĩa là không
còn tạo nghiệp.
Có đối tượng hấp
dẫn, có chú ý tạo tác thì mới có chướng ngại, mâu
thuẫn nội tại. Nếu tâm đã tịch tịnh thì không cần
phải đoạn âm hay đối tượng bên ngoài.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này điều
chỉnh sự lầm lẫn của một số đệ tử tích cực trong
vấn đề đoạn dục bằng cách đoạn âm.
2) Ðoạn âm là một phương
pháp đoạn trừ dục, nhưng không phải phương pháp của
Phật giáo, và ít có hiệu quả
3) Tâm mới là chủ nhân
của dục. Thanh lọc tâm, tu tập tâm, tăng thượng tâm mới là
con đường của Phật giáo.
Chương 32
I. Chánh Văn
Con người do ái
dục mà sinh sầu ưu, do sầu ưu mà sinh sợ hãi. Nếu thoát
ly ái dục, thì có gì mà sầu ưu, có gì mà sợ hãi.
II. Ðại
Ý
Ái dục sinh phiền não,
hết ái dục thì phiền não diệt. Phiền não diệt là Niết bàn.
III.
Giảng Nghĩa
Chương này gần như
dẫn nguyên văn trong Kinh Pháp Cú kệ thứ 215-215 Phẩm Hỷ Ái:
"Dục ái sinh sầu ưu, Dục ái sinh sợ hãi, ái thoát
khỏi dục ái, không sầu, đâu sợ hãi?".
Thật vậy con người do
ái dục về tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, miếng ăn,
giấc ngủ, mà phải lo âu phiền muộn, tranh đấu chật vật.
Có được rồi thì sợ mất, sợ cướp. Các đối tượng
của ái dục là mục tiêu của sự đấu tranh, chém giết, hãm
hại nhau. Ðiều đó đúng với thực tế của cuộc đời.
Mặt khác về mặt tâm lý,
người chứa nhiều lòng ái thì thường lo buồn. Khi mình thương
một người, người ấy có điều gì bất trắc lòng ta bất
an rối rắm, từ lo sinh sợ, sợ mất đi người mình thương.
Rốt cuộc cả cuộc đời luẩn quẩn trong vòng lo âu và sợ
hãi. Thoát khỏi sự ràng buộc của sợi dây tham ái, ta mới
được tự do tự tại.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này tương đồng
với kinh Pháp cú, kệ thứ 213-216, Phẩm Hỷ Ái.
2) Tiến trình tâm lý
bắt đầu từ ái dục là sinh sầu ưu, từ sầu ưu sinh sợ hãi,
là tiến trình khổ đau. Ngược lại không dục ái không sầu
ưu, không sợ hãi là tiến trình giải thoát.
Chương 33
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Người tu hành theo Ðạo như một người chiến đấu
với vạn người. Mặc áo giáp ra cửa, tâm ý hoặc khiếp
nhược, hoặc đi nửa đường thối lui, hoặc chiến đấu
đến chết, hoặc đắc thắng mà về. Người Sa môn học Ðạo
(cũng vậy) phải có ý chí kiên cường, dũng mãnh tiến lên,
không sợ cảnh tượng trước mắt (làm chướng ngại) phá
tan các loài ma để đắc Ðạo thành đạo quả".
II. Ðại
Ý
Người tu hành giống như
người chiến sĩ, phải chiến đấu với phiền não ma, phải
tinh tấn mới mong thành Ðạo quả
III.
Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ ngữ,
thuật ngữ:
Các loài ma:
tiếng Phạn gọi là Mara, nghĩa là Giết hại, làm não hại thân
tâm, tổn hại công đức, phá hoại trí tuệ. Có 4 loại ma:
1. Ma phiền não:
Tham, Sân, Si... não hại thân tâm.
2. Ma năm ấm
(ngũ ấm ma): chấp thủ sắc thân, cảm giác, tri giác, tâm hành
và nhận thức là ngã, nên bị năm ấm trói buộc.
3. Ma chết
(tử ma): tử thần cắt đứt mạng sống con người làm gián
đoạn sự tu tập.
4. Ma trời
(thiên ma): là tha hóa tự tại thiên, cõi trời thứ 6 của
Dục giới, còn gọi là ma vương, ma ba tuần, chuyên làm trở
ngại cho việc tu hành và làm việc thiện.
2. Giải thích nội
dung:
Chương này Ðức Phật
lấy thí dụ một người chiến sĩ ra mặt trận chiến đấu
với vạn người để nói lên:
- Tinh thần quyết
thắng , sự nỗ lực vô biên của một người tu hành.
- Nói lên sự khó khăn trở ngại mà người tu hành phải vượt
qua.
- Nói lên sự vinh quang của một hành giả đắc đạo.
Có 4 hạng chiến sĩ mà
chương này đề cập:
1- Hạng ý chí khiếp
nhược: chưa đánh đã
thua, đầu hàng từ trong ý thức, là hạng người tu hành không
lập chí nguyện, không có lý tưởng và niềm tin. Hạng người
này không có gì để bàn.
2- Hạng nửa đường
thối lui: là hạng người
bỏ cuộc nửa chừng, có công hạnh tu tập, nhưng bị cám
dỗ bởi danh lợi, không phát triển những gì đã đạt được
để đi đến đích cuối cùng.
3- Hạng chiến đấu đến
chết: là hạng người có ý
chí, có lý tưởng nỗ lực tiến lên, nhưng thiếu phương pháp
tu tập tốt, do đó không thành công. Cũng có thể nói rằng,
những người chấp thủ vào phương pháp, bảo thủ theo thói
quen hay truyền thống cũng thuộc hạng này, tức là tu hành
nghiêm chỉnh, nhưng không thành công.
4- Hạng đắc thắng
trở về: là người thành công,
có ý chí quyết tâm, có phương pháp, có trí tuệ, vượt qua
mọi chướng ngại để thành tựu mục đích tối hậu.
Tương đương chương này,
trong kinh Tăng Chi, phẩm Người chiến sĩ, Ðức Phật dạy có
5 hạng người chiến sĩ:
a) Hạng chiến sĩ chỉ
thấy bụi mù dấy lên thì chùn chân, nhụt chí, mất hết
can đảm, không thể tham gia chiến trận. Tương đương với
người tu hành mà khi nghe nói đến cô gái đẹp đẽ, khả
ái... tâm dao động và rời bỏ giáo pháp.
b) Hạng chiến sĩ khi
thấy cờ xí của địch quân dựng lên, thì chùn chân,
nhụt chí, mất hết can đảm. Tương đương với người tu
hành khi thấy người con gái đẹp đẽ dễ thương, tâm dao
động, thoái lui, rời bỏ giáo pháp.
c) Hạng chiến sĩ nghe
tiếng la hét của địch quân thì chùn chân, nhụt chí, mất
hết can đảm. Tương đương với người tu hành khi gặp cô
gái đẹp đẽ dễ thương cười nói, mơn trớn ... tâm dao
động, thoái lui, rời bỏ giáo pháp.
d) Hạng chiến sĩ khi
bị thương lúc xáp trận, liền thất kinh thất đởm. Tương
đương với người tu hành khi gặp cô gái đẹp đẽ dễ thương
đến ngồi sát một bên, nằm xuống một bên, vuốt ve, mơn
trớn, không từ bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém
trong học tập, hành dâm với cô gái ấy.
e) Hạng người chiến
sĩ chịu đựng được bụi mờ dấy lên, cờ xí dựng lên,
tiếng la hét, chịu đựng cuộc xáp chiến và vị ấy
chiến thắng. Tương đuơng với người tu hành vượt qua cám
dỗ của cô gái, bỏ cô gái, đi vào nơi thanh vắng an trú,
thiền định, đoạn diệt tham, sân, si.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Bốn hạng người
chiến sĩ của chương này tương tự như 5 hạng người
chiến sĩ trong kinh Tăng Chi về mặt hình thức.
2) Kinh Tứ Thập Nhị Chương
nêu ra đối tượng chiến đấu một cách tổng quát, và phương
thức chiến đấu là giữ vững tâm chí, tinh tấn tiến lên,
đừng sợ sệt để diệt trừ chướng ngại.
3) Kinh Tăng Chi thì chú
ý đến đối tượng cụ thể là cô gái đẹp, thắng được
cám dỗ của cô gái đẹp, dọn đường cho sự tu tập thiền
quán, thì sẽ diệt trừ mọi chướng ngại.
4) Người tu hành như
một người chiến sĩ ra mặt trận, nếu không có ý chí
vững vàng, không tinh tấn nỗ lực thì chắc chắn sẽ thất
bại.
Chương 34
I. Chánh
Văn
Có một vị Sa môn
ban đêm tụng kinh Di giáo của Ðức Phật Ca Diếp, tiếng ông
ấy buồn bã, như tiếc nuối muốn thoái lui. Ðức Phật
mới hỏi: "Xưa kia, khi ở nhà ông thường làm nghề gì?".
Ðáp rằng: "Thích chơi đàn cầm". Ðức Phật hỏi:
"Khi dây đàn chùng thì sao?". Ðáp rằng: "Không
kêu được". "Dây đàn căng quá thì sao?". Ðáp
rằng: "Tiếng bị mất". "Không căng không chùng
thì sao?". Ðáp: "Các âm thanh đầy đủ". Ðức
Phật dạy: "Người Sa môn học đạo cũng như vậy, tâm
lý được quân bình thì mới đắc Ðạo. Ðối với sự tu
Ðạo mà căng thẳng quá làm cho thân mệt mỏi, khi thân
mệt mỏi thì tâm ý sẽ sinh phiền não. Tâm ý đã sinh
phiền não thì công hạnh sẽ thoái lui. Khi công hạnh đã
thoái lui, thì tội lỗi tăng trưởng. Chỉ có sự thanh
tịnh và an lạc, Ðạo mới không mất được".
II. Ðại
Ý
Người tu hành phải
giữ quân bình trong sự tu tập, đừng quá căng thẳng, cũng
đừng quá lười biếng, mới có thể thành tựu Ðạo quả.
III.
Giảng Nghĩa
Theo kinh A Hàm, trong đời
quá khứ, trước Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã có 6 vị
Phật ra đời, mà Phật Ca Diếp (Kasyapa) là vị thứ 6, thứ 7
là Phật Thích Ca, trong chương này đề cập đến kinh Di Giáo
của Phật Ca Diếp, có thể là bài kệ ở phần sau của
luật Tỳ Kheo: "Tất cả điều ác đừng có làm đến;
tất cả điều Thánh thiện kính cẩn mà làm; tự mình làm
sạch tâm trí của mình, những điều như vậy là Chư Phật
dạy". (TỲ KHEO GIỚI, TRÍ QUANG DỊCH).
Phần duyên khởi của chương
này là một thầy Sa môn ban đêm tụng kinh tiếng nghe sầu
thảm như muốn thoái chí, Ðức Phật nghe được, biết ông
đang nỗ lực một cách sai lầm nên dạy cho ông phương pháp
tu của một người tu Ðạo. Ðức Phật sử dụng ví dụ về
chiếc đàn cầm, nếu không quá căng, không quá chùng, thì âm
thanh mới đầy đủ, hay ho. Người tu hành nỗ lực một cách
quân bình mới có thể thành tựu Ðạo quả.
Trong kinh Tăng Chi, phần
Ðại phẩm có câu chuyện tương tự: Tôn Giả Sona trú ở Vương
Xá Thành, trong khi ngồi thiền thì tư tưởng sau đây nổi lên:
"Những ai là đệ tử Thế Tôn, đều sống tinh cần, tinh
tấn, riêng ta còn chấp thủ, chưa thoát khỏi lậu hoặc, gia
đình ta có tài sản, ta có thể hưởng thụ và làm điều công
đức. Vậy, ta hãy từ bỏ con đường tu hành này". Ðức
Phật biết được tư tưởng thoái chí của Sona nên đến
giảng pháp tu tập quân bình. Ðức Phật hỏi: "Có phải
khi còn tại gia ngươi giỏi đánh đàn tỳ bà 16 dây?"
"Thưa phải". Phật hỏi: "Khi những sợi dây tỳ
bà của ngươi quá căng thẳng ngươi có thể sử dụng được
không?" "Thưa không, Bạch Thế Tôn". "Khi sợi
dây đàn tỳ bà của ngươi quá chùng ngươi có thể sử
dụng được không?" "Thưa không, Bạch Thế Tôn".
"Khi sợi dây đàn tỳ bà của ngươi không quá căng, không
quá chùng, vặn đúng vừa mức trung bình, ngươi sử dụng
được không?" "Bạch Thế Tôn, được". "Cũng
vậy, này Sona khi tinh thần quá căng thẳng sẽ đưa đến dao
động, khi tinh cần quá thụ động sẽ đưa đến biếng nhác.
Do vậy, này Sona, người phải an trú tinh thần một cách bình
ổn điều hòa..."
Qua đoạn kinh trên của
kinh Tăng Chi, chúng ta thấy 2 bài kinh có những điểm giống
nhau và những điểm khác nhau. Mối liên hệ của 2 bài kinh này
được thấy rõ ràng nhất là thí dụ về cây đàn tỳ bà và
cây đàn cầm. Cần chú ý đến phần kết của bài kinh, chương
này thì nói: "Quá căng thẳng đưa đến thân mệt mỏi,
thân mệt mỏi đưa đến công hạnh thoái lui. Công hạnh thoái
lui thì tội lỗi gia tăng". Cách nói như vậy khá rõ lộ
trình của sự gia căng thẳng quá mức.
Kinh Tăng Chi đơn giản hơn
"Tinh cần quá mức đưa đến dao động (tương đương
với phiền não), dao động đưa đến biếng nhác (tương
đương với hạnh thoái lui).
Ðiều khác nhau chỉ có
ở phần duyên khởi, không đáng kể.
Qua so sánh trên, ta thấy
2 bài đều có chung cội nguồn. Ý thú của chương này đề
cao sự thăng bằng về:
1) Thăng bằng về sinh
lý: ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, học hành, tu tập, đừng
để cho thân quá mệt, cũng đừng để cho thân biếng nhác.
2) Thăng bằng về tâm
lý: sự nôn nóng mong cầu mau được kết quả có thể điên
loạn hoặc dao động, biếng nhác, ủ rũ không cầu tiến
đưa đến buông thả.
3) Thăng bằng về tình
cảm: quá giận, quá thương, quá xúc động, nhạy cảm đều
gây ra mất quân bình, ảnh hưởng cho sự tu tập.
4) Thăng bằng về tu
tập: pháp môn tu tập phải phù hợp với căn cơ trình đ?
của mình, thời khóa tu tập phải được sắp xếp hợp lý.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương 24 này có sự
tương đồng với phẩm Ðại phẩm, phần Sona trong kinh Tăng
Chi II.
2) Giải đãi lười
biếng thì đạo nghiệp không thành. Nỗ lực quá mức sẽ
mệt mỏi và thoái chí. Phải biết lượng sức mình, đừng
ép uổng thân tâm quá mức, cũng đừng buông thả thì con đường
tu tập chắc chắn có kết quả.
Chương 35
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Như người luyện sắt gạn lọc phần cặn bã, còn
lại sắt tinh luyện, chế tạo đồ dùng một cách tinh
xảo. Người học đạo phải loại bỏ tâm lý ô nhiễm đi
thì công hạnh trở nên thanh tịnh".
II. Ðại
Ý
Phải gạn lọc tâm lý
ô nhiễm thì hành vi mới thanh tịnh.
III.
Giảng Nghĩa
Chương này Ðức Phật
sử dụng ví dụ người luyện sắt để nói lên hướng đi
chính của người tu hành là phải gạn lọc tâm lý ô nhiễm,
như người luyện sắt phải loại trừ các tạp chất trong
sắt mới có thể luyện thành vật dụng tốt.
Tất cả mọi hành động
đều do động cơ trong tâm. Tâm như là nguồn của dòng
suối. Nếu nguồn suối đục thì dòng suối sẽ đục, nguồn
suối trong thì dòng suối sẽ trong, nguồn suối lúc trong lúc
đục thì dòng suối chảy về sẽ lúc đục lúc trong.Tâm chưa
gạn lọc các tâm lý ô nhiễm thì hành động, hành vi sẽ có
lỗi lầm. Vậy cho nên có người nói: "Chỉ có Thánh
mới không sai lầm".
Sự gạn lọc tâm lý
phải có phương pháp, như người luyện sắt phải có phương
pháp, các công đoạn tuần tự. Người tu hành cũng vậy, từ
từ loại bỏ phần thô, phần dễ thấy của tâm lý ô
nhiễm, dần dần loại bỏ đến tâm lý ô nhiễm tế nhị hơn.
Ðiều đó có nghĩa là sự kiểm soát đối với tư tưởng,
ngôn ngữ và hành vi thô tháo cần phải chặt chẽ và gạn
lọc một cách dứt khoát và triệt để.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Ví dụ về người
luyện sắt bỏ các cặn bã để sắt thành tinh luyện rất phù
hợp với quá trình gạn lọc phiền não của người tu hành.
2) Phải gạn lọc loại
trừ tâm lý ô nhiễm, bắt đầu từ thô cho đến tế, làm
cho tâm trong sạch thì các hoạt động của thân và khẩu
trở nên trong sạch.
Chương 36
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Kẻ thoát được ác đạo được sinh làm người là khó.
Ðược làm người mà thoát được thân nữ làm thân nam là
khó. Làm được thân nam mà sáu giác quan đầy đủ là khó.
Sáu giác quan đầy đủ mà sinh vào xứ trung tâm là khó.
Sinh vào xứ trung tâm mà được gặp thời Phật là khó.
Ðã gặp thời Phật mà gặp được Ðạo là khó. Khởi được
niềm tin mà phát tâm Bồ đề là khó. Phát tâm Bồ đề mà
đạt đến chỗ vô tu vô chứng là khó".
II. Ðại
Ý
Ðức Phật nêu 9 điều
khó để khích lệ tinh thần tu tập của người tu hành.
III.
Giảng Nghĩa
1. Giải thích từ
ngữ, thuật ngữ:
Ác
đạo: địa ngục (Niraya), nơi
không có cái gì là an ổn, hạnh phúc. Ngạ quỷ (Peta-yoni) là
loài chúng sinh đau khổ vì không có thực phẩm nuôi thân. Súc
sinh hay bàng sinh (Tina echannayoni) khổ vì tranh đấu và không có
điều kiện giác tỉnh và thăng hoa.
6 căn
(lục căn): là 6 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm
ý.
Trung quốc:
trung tâm văn hóa văn minh, trái với trung quốc là chốn biên
cương hẻo lánh.
Tín tâm
(Sadha): niềm tin đối với Tam bảo, với Chánh pháp.
Bồ Ðề Tâm
(Bodhi- Citta): đã nói ở chương 19, ở đây nói thêm: Tâm có
Bồ đề gọi là Bồ đề tâm, tức là các loại tâm ý tương
ứng với Trí tuệ.
Bồ đề là Tâm gọi là
Bồ đề tâm, tức là tâm thức luôn luôn sẵn có hạt giống
Bồ đề.
Vô tu vô chứng:
đã đề cập ở chương 11, ở đây xác định lại đơn
giản là quả vị Phật.
2. Giải thích nội
dung:
Chương 12 có đề cập
đến 20 điều khó, chương này nói thêm 9 điều khó bổ sung
cho đầy đủ hơn. Sắc thái của 9 điều khó này mang tính khách
quan vật lý hơn, trong khi có 20 điều khó chương 12 có tính tâm
lý hơn, mặc dù những điều cuối cùng của chương 36 này
chuyển hướng vào nội tâm, nội chứng:
* Thứ nhất,
được làm thân người là khó: chúng sinh trong 3 ác đạo
sống trong môi trường không có thiện nghiệp, phước thiện,
duyên lành nên không có điều kiện để thoát khỏi cảnh
khổ. Khi gặp duyên lành mà sinh ra cõi người, chẳng khác nào
khát quá có nước uống, đói quá có cơm ăn. Trong kinh Tương
ưng diễn tả sự khó này bằng hình ảnh con rùa mù nằm dưới
biển 100 năm mới nổi lên mặt nước một lần; trên biển có
một bộng cây trôi lang thang, con rùa mà gặp được bộng cây
rất khó. Con người từ ác đạo mà được sinh vào cõi người
cũng vậy.
Môi trường ác sẽ nuôi
dưỡng cái ác, cơ hội cải thiện khó vô cùng.
* Thứ hai, tránh
được thân nữ làm thân nam: thân phận người nữ có nhiều
hạn chế, nhất là về mặt giải thoát ; về sinh lý ; người
nữ cũng có nhiều khốn đốn nặng nề ; về tình cảm dễ
thỏa mãn trong tình ái; về xã hội, nhất là xã hội Á Ðông,
người nữ bị coi là thấp kém. Trong A Hàm cũng có đề cập
đến sự hạn chế của người nữ là khó làm Phật, Chuyển
luân Thánh Vương, Phạm Thiên, Ðế Thích và Ma Vương.
Phật giáo không xem thường
phụ nữ, mà chỉ nói sự thực rằng người nữ có nhiều điều
bị hạn chế hơn phái nam. Thật ra, trong Giáo đoàn nữ đệ
tử Phật, vẫn đầy đủ các bậc Thánh A La Hán. Vấn đề
trọng yếu là tâm lý, thái độ và trình độ giải thoát
mới quan trọng, làm thân nữ mà đắc Ðạo còn hơn làm thân
nam mà ngu muội.
* Thứ ba, sáu
giác quan đầy đủ là khó: làm người hoàn hảo về thể xác
đã là khó rồi, mắt không chột, không viễn hay cận thị,
không bệnh; mũi, lưỡi, thân cũng vậy. Tâm lý không điên
loạn, không mất thăng bằng; não bộ, hệ thần kinh lành
mạnh là hạnh phúc vô cùng. Người này ở đời thâu hoạch
được nhiều hạnh phúc hơn. Ở đạo thì có điều kiện
thuận lợi hơn trong việc tu hành. Hơn nữa, điều kiện để
trở thành vị tỳ kheo là 6 giác quan đầy đủ. Ðiều này không
phải dễ.
* Thứ tư,
sinh ở trung tâm văn minh văn hóa của một nước: có 6 giác
quan đầy đủ mà không có môi trường sống tốt, con người
khó mà thăng hoa đời sống, có điều kiện tìm kiếm hạnh
phúc là điều ước mơ của nhiều người, ở xa trung tâm văn
hóa, con người trở nên thô bạo thấp kém, khó phát triển
trí tuệ. Ðó là nói về nguyên tắc chung. Ðối với người
tu hành, chốn phồn hoa đôi khi trở thành cạm bẫy làm tan
vỡ sự nghiệp tu tập. Nếu xét một cách thoáng rộng thì
ở trong biên địa cũng có trung quốc, ở trong trung quốc cũng
có biên địa.
Tư tưởng về sinh vào
trung quốc, có lẽ xuất phát từ Trung Hoa, trong bài kinh Quy
mạng nói: "Sinh phùng trung quốc, tưởng ngộ minh sư, chánh
tín xuất gia, đồng chân nhập Ðạo".Tóm lại, có điều
kiện để sống cao hơn về mặt tinh thần là khó.
* Thứ năm,
gặp Phật ra đời là khó: là được sinh vào thời có Phật
xuất hiện là khó. Ðiều này có 2 ý:
- Ý như trên (chương
12).
- Thời kỳ Phật pháp còn lưu truyền, có điều kiện văn hóa
hướng thượng, hướng thiện.
* Thứ sáu,
gặp được Phật pháp là khó: tức là tìm hiểu, học hỏi
giáo pháp của Ðức Phật, thích thú trong chánh pháp, hướng
đến chánh pháp.
* Thứ bảy,
phát khởi tín tâm là khó: gặp được giáo pháp nhưng không
phát khởi niềm tin, nên không phát triển tâm linh được,
khởi tín tâm là có niềm tin đối với Chánh pháp, đi theo Chánh
pháp, quy y Tam bảo, thực hành các giới luật ... Chỉ có
niềm tin, có lý tưởng thì công đức, tâm linh mới được
phát triển.
* Thứ tám,
Pháp Bồ Ðề tâm là khó: có được niềm tin, có lý tưởng,
có tu tập giáo pháp nhưng trí tuệ không phát triển thì
niềm tin đó trở nên hạn hẹp và thui chột. Tâm Bồ Ðề là
tâm trí tuệ, là tâm mong muốn thành tựu Phật quả, hóa độ
chúng sinh.
* Thứ chín,
đạt được quả vị Phật là khó: mục tiêu của Phát Bồ
đề tâm là Phật quả, đi đến tận cùng. Phát huy tận cùng
của Bồ đề tâm là Phật, hoàn thành mục tiêu tối hậu là
sự nghiệp lớn lao và khó khăn.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chín điều khó Ðức
Phật dạy trong chương này, 5 điều đầu thuộc về nghiệp
lực, 4 điều sau thuộc về khả năng tâm linh.
2) Phần khó về khả năng
Giác ngộ mới quan trọng. Tâm linh sáng suốt, có tu, có
chứng thì ác đạo biến thành thiện đạo, nữ thành nam, biên
địa thành trung quốc. Mắt mù mà thấy hết , tai điếc mà
nghe khắp ...
Chương 37
I. Chánh Văn
Ðức Phật dạy:
"Ðệ tử của ta tuy ở xa ta vài nghìn dặm, luôn nghĩ
đến giới pháp của ta thì chắc chắn sẽ chứng được đạo
quả. Ở gần bên ta, tuy thường gặp mà ta không thực hành
theo giới pháp của ta, cuối cùng vẫn không chứng được
Ðạo.
II. Ðại
Ý
Người đệ tử Phật,
điều quan trọng nhất là thực hành giới pháp của Phật, có
vậy mới tu hành có kết quả.
III.
Giảng Nghĩa
Chương này có mối tương
quan với câu chuyện trong kinh Pháp cú thí dụ, phẩm "Hộ
giới", chuyện "Gần Phật với xa Phật": Bấy
giờ, ở nước La Duyệt Kỳ, có 2 tỳ kheo muốn đến yết
kiến Ðức Phật, trên đường đi gặp lúc hạn hán, không có
nước uống, gặp một vũng nước nhỏ, nhưng đầy những
sinh vật nhỏ, không uống được. Một người vì giữ giới,
quyết định không uống dù phải chết khát. Người kia chủ
trương uống để sống và để gặp Phật, dù phạm giới sát
sanh. Người không uống mà chết được sinh lên cõi trời Ðao
Lợi, xuống hầu thăm Ðức Phật, đứng một bên Phật. Người
kia uống nước được sống đến gặp Ðức Phật, và báo
cho Phật bạn mình đã mạng chung. Ðức Phật chỉ vị Tiên
nhân đang đứng bên cạnh bảo: "Ðây là bạn của ngươi
nhờ giữ giới nên gặp ta trước người". Sau đó, Phật
dạy: "Ngươi tuy thấy hình ta mà không giữ giới pháp
của ta, thì tuy thấy ta mà ta không thấy ngươi. Người kia,
tuy cách ta ngàn dặm, nhưng giữ giới luật thì người ấy như
đứng truớc mặt ta".
Rõ ràng chương này đề
cao vai trò của giới luật, coi giới luật như là Ðức
Phật.Trong kinh Di giáo, Ðức Phật cũng đã dạy tương tự:
"Sau khi ta diệt độ, thì phải trân trọng giới luật như
người mù thấy được ánh sáng, như người nghèo gặp được
châu báu. Nếu ta có ở đời cũng không khác giới luật này
vậy".
Nhấn mạnh về giới
luật là vì mục đích của Phật giáo là đoạn trừ khổ đau,
thành tựu hạnh phúc tối thượng. Sự hạnh phúc phải được
xây dựng trên cơ sở đạo đức. Ðạo đức là nền tảng
của hạnh phúc, của sự giải thoát giác ngộ. Ðạo đức chính
là Giới luật. Giới luật không phải giáo điều, mà là
những điều kiện tất yếu để dẫn đến hạnh phúc tối
thượng, tức giác ngộ Niết bàn.
Trong kinh Tương ưng,
phẩm "Rắn Ðộc", phần con rùa, kể rằng: "Có
một con rùa đi giữa đường gặp một con giã can đang đi
kiếm mồi, con rùa liền thụt 4 chân và cái đầu vào trong
mai rùa của mình. Con giã can trông thấy con rùa, nghĩ rằng:
"Khi con rùa này thò chân nào hay cái đầu ra, ta sẽ chộp
lấy". Nhưng con rùa kiên nhẫn ở trong mai rùa của mình,
nên con Giã can bỏ đi". Người tu hành cũng vậy, phải
sống với sự hộ trì các giác quan, sự tuân thủ giới
luật sẽ không bị ác ma não hại. Công dụng của Giới
luật rất lớn đối với người học Phật. Vì vậy, không
thể coi thường giới luật.
IV. Nhận
Xét Và Kết Luận
1) Chương này có tương
đồng với câu chuyện "Gần Phật với xa Phật"trong
kinh Pháp cú thí dụ.
2) Giới luật rất cần
thiết đối với người tu hành theo Phật, vì đó là những
nguyên tắc đạo đức, là điều kiện của hạnh phúc và
giải thoát.
-oOo-