Lúc bấy giờ, Đồng nữ
Ca-diếp cùng năm Tỳ-kheo du hành từ nước Câu-tát-la lần đến thôn
Bà-la-môn tên là Tư-bà-hê. Rồi Đồng nữ Ca-diếp nghỉ tại phía Bắc rừng
Thi-xá-bà. Lúc đó có người Bà-la-môn tên Tệ-tú, xưa nay ở thôn Tư-bà-hê,
một thôn giàu vui, nhân dân đông đúc, cây cối sầm uất do vua Ba-tư-nặc
đã phong riêng cho Bà-la-môn Tệ-tú coi như là một ân điển. Bà-la-môn
Tệ-tú là người thường chấp giữ dị kiến và dạy mọi người rằng: “Không có
thế giới khác, cũng không có hóa sinh , không quả báo thiện ác”..”
Lúc bấy giờ, người trong thôn Tư-bà-hê nghe có Đồng nữ Ca-diếp cùng
năm Tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la đi lần đến nghỉ tại rừng Thi-xá-bà, bàn
nhau rằng: “Vị Đồng nữ Ca-diếp này có tiếng tăm lớn, đã chứng A-la-hán,
kỳ cựu trưởng túc, đa văn, quảng bác, thông minh duệ trí, biện tài ứng
cơ, giỏi cách nghị luận, nếu chúng ta gặp được thì hay lắm”. Rồi người
trong thôn cứ ngày ngày thay nhau tìm đến Ca-diếp. Bấy giờ Tệ-tú đang
đứng trên lầu cao trông thấy mọi người từng đoàn nối nhau kéo đi mà
chẳng biết đi đâu, mới hỏi người cầm lọng hầu rằng:
“Những người kia vì sao họp thành đoàn nối nhau như thế?”
Người hầu đáp:
“Tôi nghe nói Đồng nữ Ca-diếp cùng năm trăm Tỳ-kheo từ nước
Câu-tát-la đến nghỉ tại rừng Thi-xá-bà. Lại nghe đồn người ấy có tiếng
tăm lớn, đã chứng La-hán, kỳ cựu trưởng túc, đa văn quảng bác, thông
minh duệ trí, biện tài ứng cơ, giỏi cách nghị luận. Những người kia họp
thành đoàn nối nhau là đoàn muốn đêến gặp Ca-diếp đấy”.”
Tệ-tú liền sai người hầu:
“Ngươi hãy mau tới nói mấy người ấy, bảo hãy dừng lại, chờ ta cùng đi
đến gặp với. Vì sao? Vì người kia ngu si, nhầm lẫn, lừa dối thế gian,
nói có thế giới khác, có hóa sinh, có quả báo thiện ác. Song kỳ thật
không có thế giới khác, không có hóa sinh, không có quả báo thiện ác”.”
Người hầu vâng lời đến nói với người thôn Tư-bà-hê kia rằng:
“Ông Bà-la-môn bảo các người hãy dừng lại chờ, để cùng đi gặp gỡ”.”
Người trong thôn đáp:
“Hay lắm, nếu muốn đi, chúng ta hãy cùng đi”.”
Người hầu về thưa lại:
“Những người kia đang dừng lại đợi. Đi được thì đi mau”.”
Tệ-tú liền xuống lầu, sai người hầu sắp sửa xe cộ, rồi với đoàn người
trong thôn vây quanh nhau, ông đi đến rừng Thi-xá-bà. Khi đến nơi, ai
nấy đều xuống xe đi bộ đến chỗ ngài Ca-diếp, hỏi han xong ngồi lại một
bên. Người trong thôn ấy, Bà-la-môn có, cư sĩ có, có người lễ bái
Ca-diếp rồi mới ngồi, có người hỏi han rồi ngồi, có người tự xưng tên
mình rồi ngồi, có người chắp tay xá rồi ngồi, có người chỉ lặng lẽ ngồi
xuống.
Bấy giờ Bà-la-môn Tệ-tú nói với Ca-diếp:
“Nay tôi có điều muốn hỏi. Ngài có rỗi rảnh cho phép được hỏi không?”.
Ca-diếp đáp:
“Tùy theo chỗ ông hỏi, nghe rồi mới biết”.”
Tệ-tú nói:
“Luận thuyết của tôi là không có thế giới khác, không có hóa sinh, không có quả báo tội phước. Luận thuyết của ngài thế nào?”
Ca-diếp đáp:
“Nay tôi hỏi ông. Ông hãy trả lời theo ý nghĩ của mình. Hiện mặt
trời, mặt trăng ở trên kia thuộc về thế giới này hay thế giới khác?
Thuộc về trời hay về người?”
Bà-la-môn đáp:
“Mặt trời, mặt trăng là thuộc về thế giới khác chớ không phải thế giới này; thuộc về trời chớ không phải người”.”
Ca-diếp nói:
“Như vậy có thể biết tất phải có thế giới khác, phải có hóa sinh, phải có quả báo thiện ác”.”
Bà-la-môn nói:
“Tuy ngài nói có thế giới khác, có hóa sinh, có quả báo thiện ác, nhưng theo ý tôi thì không tất cả”.”
Ca-diếp hỏi:
“Có nhân duyên gì để biết không có thế giới khác, không có hóa sinh, không có quả báo thiện ác?”
“Có nhân duyên”.”
“Nhân duyên gì để nói biết không có thế giới khác, không có hóa sinh, không có quả báo thiện ác?”
Bà-la-môn nói:
“Này Ca-diếp, nguyên tôi có người bà con quen biết, mắc phải bệnh
ngặt, tôi đến nói hỏi rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn thường chấp theo dị
kiến, cho rằng những người sát sinh, trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi, nói
dối, nói thêu dệt, xan tham, tật đố, tà kiến, sau khi chết đều bị đọa
địa ngục. Nhưng tôi không tin vì tôi chưa hề thấy người nào chết rồi trở
lại nói cho biết chỗ họ đọa vào. Nếu có người trở lại nói cho biết chỗ
họ đọa vào, thì tôi tin ngay. Nay anh là chỗ thân thuộc của tôi. Anh đã
tạo đủ mười điều ác. Nếu quả như lời Sa-môn nói thì anh chết chắc phải
sa vào địa ngục. Nay tôi tin ở anh, tùy theo anh để quyết định. Nếu xét
có cảnh địa ngục thật, anh hãy trở lại nói cho tôi biết. Sau đó tôi sẽ
tin. Nhưng, này Ca-diếp, từ khi người ấy chết đến nay biệt mất không hề
trở lại. Người ấy là người thân của tôi, không lẽ dối tôi, hứa rồi không
trở lại. Do đó tôi biết chắc không có thế giới khác”.”
Ca-diếp trả lời:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi sẽ dẫn ví dụ để giải bày.
Ví như một tên đạo tặc, thường ôm lòng gian trá, vi phạm phép cấm nhà
vua, bị rình bắt đem đến vua và tâu: Người này là giặc cướp, xin vua trị
nó. Vua liền hạ lệnh tả hữu bắt trói kẻ kia bêu rêu khắp các ngõ đường,
rồi chở ra khỏi thành, giao cho đao phủ xử hình. Khi tả hữu mang tên
cướp đó giao cho đao phủ, tên giặc cướp ấy dùng lời mềm mỏng xin với thị
vệ rằng: Xin ông thả cho tôi về thăm bà con xóm làng để nói vài lời từ
biệt, xong tôi trở lại. Này Bà-la-môn, ông nghĩ sao, thị vệ kia có chịu
thả không?”
Đáp: “Không”.
Ca-diếp nói:
“Họ là người cùng loại, ở cùng một đời hiện tại, còn không chịu thả
huống gì bà con ông tạo đủ mười điều ác, chết tất đọa địa ngục. Ngục quỷ
không có từ tâm, lại không cùng một loại, thế giới chết sống khác nhau.
Khi đó bà con ông nếu lấy lời ngon ngọt xin quỷ ngục rằng: Ngươi hãy
tạm tha ta, để ta trở lại nhân gian thăm bà con, từ biệt vài lời xong ta
sẽ trở lại. Người ấy có được thả không?”
Đáp: “Không”.
Ca-diếp nói:
“Cứ so sánh theo đó đủ biết. Tại sao ngươi còn giữ chặt chỗ mê lầm, sinh điều tà kiến như thế?”
Tệ-tú nói:
“Tuy ngài dẫn dụ bảo có thế giới khác, nhưng tôi vẫn cho là không có”.”
Ca-diếp hỏi:
“Ông còn duyên cớ gì khác để biết không có thế giới khác?”
“Có duyên cớ khác để biết không có thế giới khác”.”
“Duyên cớ gì?”
“Này Ca-diếp, nguyên tôi có người bà con mắc phải bệnh nặng, tôi đến
nói với nó rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn, chấp theo dị kiến bảo có thế
giới khác. Rằng ai không giết, không trộm, không tà dâm, không dối,
không hai lưỡi, không nói dữ, không vọng ngữ, không nói thêu dệt, không
tham lam, không tật đố, không tà kiến, thì khi chết được sinh lên cõi
trời. Tôi trước kia không tin điều đó, vì từ trước tôi chưa từng thấy
người nào chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ đã sinh tới. Nếu có ai
trở lại nói cho biết chỗ họ sinh đến thì tôi tin ngay. Nay anh là chỗ bà
con tôi, anh đã tạo đủ mười điều lành. Nếu quả như lời Sa-môn,
Bà-la-môn nói thì anh chết rồi sẽ được sanh lên cõi trời. Bây giờ tôi
tin anh để quyết định. Vậy nếu xét thật có quả báo cõi trời, anh phải
nhớ trở lại
nói cho tôi biết để tôi tin. Nhưng, này Ca-diếp, từ ngày anh ta chết đến
nay không hề trở lại. Anh ta là người thân của tôi, không thể dối tôi,
hứa rồi không trở lại. Nên chắc không có thế giới khác”.”
Ca-diếp nói:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ ngươi rõ. Ví
như có người bị rớt xuống hầm xí, đầu mình chìm nghỉm. May được vua cho
người vớt lên. Lấy tre làm lược, cạo trên thân người ấy ba lần, rồi lấy
nước tháo đậu, tro sạch rửa lần.; Sau lại lấy nước thơm tắm gội, lấy các
thứ bột hương xoa khắp mình và bảo thợ cạo sạch râu tóc cho. Lại cho
người tắm gội thêm ba lần như thế, lấy nước thơm rửa, lấy bột hương xoa
mình và lấy áo tốt mặc cho, làm đẹp thân thể người ấy. Tiếp đến, người
ta đem thức ngon vị ngọt cho ăn rồi đưa đến ở ngôi nhà cao đẹp cho hưởng
thú ngũ dục. Này Tệ-tú, về sau người kia có muốn rớt xuống hầm xí nữa
không?”
“Không. Chỗ dơ thối đó, còn trở lại làm gì”.”
“Chư Thiên cũng thế. Họ cho cõi Diêm-phù này là nơi tanh hôi bất
tịnh. Họ ở cách trên xa hàng trăm do-tuần còn nghe mùi hôi của nhân gian
xông lên không khác hầm xí. Như vậy, này Bà-la-môn, bà con của ông đầy
đủ thập thiện, tất nhiên sanh thiên, hưởng thú ngũ dục, khoái lạc vô
cùng, phỏng có chịu trở lại cõi Diêm-phù hầm xí này không?”
Đáp: “Không”.
“Cứ so sánh theo đó đủ biết, tại sao ông còn giữ chặt mê lầm, sinh điều tà kiến thế!”
Bà-la-môn nói:
“Tuy ngài dẫn dụ nói có thế giới khác, song tôi vẫn cho là không có”.”
Ca-diếp hỏi:
“Ông còn duyên cớ gì khác để biết không có thế giới khác?”
“Có duyên cớ khác”.”
“Duyên cớ gì?”
“Này Ca-diếp, nguyên tôi có người bà con mắc bệnh trầm trọng, tôi đến
nói rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn, chấp theo dị kiến, bảo có đời sau.
Rằng người nào không sát, không trộm cắp, không tà dâm, không dối, không
uống rượu thì khi chết được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Nhưng tôi không
tin vì tôi chưa từng thấy có ai chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ đã
sanh tới. Nếu có ai trở lại cho biết thì tôi tin ngay. Nay anh là bà con
tôi, anh tu đủ ngũ giới, chết rồi chắc được sinh lên cõi Đao-lợi. Giờ
tôi chỉ còn tin anh để quyết định. Vậy nếu quả có cõi thiên phước, anh
hãy trở lại nói cho tôi biết để tôi tin. Nhưng này Ca-diếp, từ ngày anh
ta chết đến nay không hề trở lại. Anh ta là bà con tôi, không lẽ dối
tôi, hứa rồi không lại? Nên chắc không có đời sau”.”
Ca-diếp đáp:
“Ở cõi này một trăm năm chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đao-lợi.
Cõi Đao-lợi cũng lấy ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một
năm, mà người ở cõi trời kia lại sống lâu một ngàn năm như thế.
Bà-la-môn, ông nghĩ thế nào? Khi người bà con ông giữ gìn đủ ngũ giới,
chết được sinh lên cõi trời Đao-lợi thì nghĩ rằng: Ta đã được sinh lên
đây, ta hãy vui chơi trong hai, ba ngày, sau trở lại báo tin cho bà con
ta hay. Như thế, chừng có gặp được không?”
“Không. Khi ấy tôi đã chết mất lâu rồi, làm sao gặp được. Nhưng tôi
không tin; ai đã nói với ngài cõi trời Đao-lợi có sự sống lâu như thế.?”
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ ngươi rõ. Ví
như có người sinh ra đã bị đui, không hiểu năm màu xanh, vàng, đỏ,
trắng, thô, tế, dài, vắn; cũng không thấy mặt trời, mặt trăng, sao, gò
nổng, ngòi, rãnh gì gì cả. Nếu có ai hỏi nó xanh, vàng, đỏ, trắng như
thế nào, thì nó trả lời ngay: Không có năm màu sắc. Cũng vậy, nếu hỏi
đến thô, tế, dài, vắn, mặt trời, mặt trăng, sao, gò, nổng, ngòi, rãnh,
thì nó cũng trả lời không có. Bà-la-môn, ông nghĩ thế nào, người mù trả
lời như thế có đúng không?”
“Không đúng. Vì sao? Thế gian hiện có năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, thô, tế, dài, vắn, mà người mù bảo không”.”
“Này Bà-la-môn, ông cũng như thế. Sự sống lâu của trời Đao-lợi có
thật, không hư dối; chỉ vì ngươi không thấy nên ngươi mới nói không có
thôi”.”
Bà-la-môn nói:
“Tuy ngài nói có, nhưng tôi vẫn không tin”.”
Ca-diếp hỏi:
“Ông còn có duyên cớ gì mà cho là không có đời sau?”
“Này Ca-diếp, nguyên ngườii trong phong ấp của tôi có kẻ ăn cướp bị
rình bắt được đem đến tôi và nói: Người này là giặc cướp, xin ông trị
nó. Tôi liền bảo trói người ấy lại bỏ vào trong một cái vạc, đậy nắp
trét kín với một lớp bùn dày, không để cho cái gì tiết ra được, rồi lấy
lửa vây đốt. Lúc đó tôi cố tìm thử thần thức người ấy thoát ra chỗ nào,
nên khiến kẻ thị tùng bao quanh cái vạc nhìn kỹ, song không ai thấy chỗ
thần thức chui ra ở đâu. Sau tôi lại bổ cái vạc ra tìm, cũng chẳng thấy
chỗ nào là chỗ thần thức qua lại. Vì duyên cớ đó nên tôi biết chắc không
có thế giới khác”.”
Ca-diếp nói:
“Nay tôi hỏi ông, nếu trả lời được thì tùy ý mà trả lời.
“Này Bà-la-môn, khi ông nằm ngủ trên lầu cao, có lúc nào ông ngủ mộng
thấy núi, rừng, sông, ngòi, vườn quán, ao hồ, quốc ấp, đường sá không?”
Đáp: “Có mộng thấy”.
“Này Bà-la-môn, lúc ông đang nằm mộng, quyến thuộc trong nhà có hầu quanh ông không?”
Đáp: “Có hầu”.
“Quyến thuộc của ông khi đó có thấy thần thức ông đi ra đi vào không?”
“Không thấy”.”
“Ông hiện còn sống mà thần thức ra vào còn không thấy được, huống nơi
người chết. Ngươi không thể chỉ dựa vào việc trước mắt mà quán sát
chúng sanh.
“Này Bà-la-môn, có những vị Tỳ-kheo, từ đầu đêm chí cuối đêm không
ngủ, tinh cần chuyên niệm đạo phẩm, lấy sức tam-muội mà tịnh tu thiên
nhãn. Rồi bằng năng lực thiên nhãn mà quán thấy chúng sanh chết chỗ này
sinh chỗ kia, chết chỗ kia sinh chỗ này, sống lâu hay chết yểu, nhan sắc
tốt hay xấu, tùy hành vi mà thọ báo ở cảnh giới tốt hay xấu, đều thấy
biết hết. Ông không nên vì lẽ con mắt thịt uế trược không nhìn thấy suốt
chỗ thú hướng của chúng sanh mà vội cho là không có. Này Bà-la-môn, do
đó có thể biết chắc chắn có thế giới khác”.”
Bà-la-môn nói:
“Tuy Ngài dẫn dụ nói có thế giới khác, nhưng theo chỗ tôi biết thì hẳn không có”.”
Ca-diếp hỏi:
“Ông còn có duyên cớ gì cho là không có thế giới khác?”
Đáp: “Có”.
“Duyên cớ gì?”
Bà-la-môn nói:
“Nguyên người ở thôn tôi, có kẻ làm giặc cướp, bị rình bắt được đem
đến tôi và nói: Người này làm giặc cướp, xin ông trị nó. Tôi liền sai tả
hữu bắt trói người ấy lại, để sống vậy mà lột da tìm thần thức. Nhưng
không trông thấy gì cả. Lại sai tả hữu cắt thịt ra tìm thần thức, cũng
chẳng thấy. Lại sai xẻ xương, gân, vạch ra tìm cũng chẳng thấy. Lại sai
đập xương tìm trong tủy, cũng chẳng thấy. Này Ca-diếp, vì cớ đó, tôi
biết chắc không có thế giới khác”.”
Ca-diếp nói:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà được rõ. Để tôi dẫn chuyện này cho ông
rõ. Vào thời quá khứ xa xưa, có một quốc độ bị điêu tàn hoang phế chưa
hồi phục. Bấy giờ có đoàn lái buôn gồm năm trăm cỗ xe đi ngang qua quốc
độ này, gặp một người Phạm- chí thờ phụng thần Lửa thường nghỉ tại một
khu rừng. Các người lái buôn mới đến xin ngủ trọ. Sáng ngày, sau khi bọn
lái buôn đi, ông Phạm chí thầm nghĩ: Ta hãy đến chỗ mấy người lái buôn
ngủ khi đêm xem thử họ có bỏ sót gì chăng? Ông liền đến xem thì không
thấy gì trừ một đứa con nít mới sanh độ một năm, đang ngồi một mình. Ông
Phạm chí nghĩ: Ta đâu có thể nhẫn tâm thấy đứa nhỏ này chết trước mặt
mình. Ta có nên mang đứa nhỏ này về chỗ mình để nuôi chăng? Ông liền
bồng về chỗ mình ở mà nuôi. Đứa trẻ mỗi ngày mỗi lớn, được mười
tuổi hơn. Lúc đó ông Phạm chí có chút việc muốn đi vào nhân gian, mới
dặn đứa nhỏ: Ta có chút việc, tạm đi khỏi ít hôm. Ngươi khéo giữ gìn
ngọn lửa này chớ để tắt. Nếu lửa có tắt, thì hãy lấy hai thanh củi cọ
lại với nhau mà lấy lửa đốt lên. Dặn xong, Phạm chí ra đi. Sau khi ông
đi, đứa nhỏ ham chơi, không chịu coi lửa cho thường, để lửa tắt. Đứa nhỏ
hết chơi trở về thấy lửa đã tắt, áo não than thầm: “Ta làm hỏng rồi!
Cha ta khi đi có dặn bảo ta phải trông coi ngọn lửa này đừng để tắt. Nay
ta ham chơi, để cho lửa tắt. Phải làm gì đây? Nó liền thổi tro tìm lửa.
Chẳng thấy lửa đâu. Lại lấy búa chẻ củi ra tìm, cũng chẳng thấy. Lại
chặt củi thành khúc bỏ vào cối giã để tìm. Cũng chẳng thấy. Sau đó Phạm
chí từ ngoài trở về, đến khu rừng mà ông trú ngụ, hỏi đứa nhỏ: Trước khi
đi ta đã dặn ngươi coi lửa. Lửa có tắt không?. Đứa nhỏ đáp: “Vừa rồi con
chạy ra ngoài chơi, không coi lửa thường, nên lửa đã tắt. Phạm chí lại
hỏi: Người làm cách nào để lấy lửa lại? Đứa nhỏ đáp: Lửa phát ra từ củi.
Con lấy búa bửa củi ra tìm mà chẳng thấy. Lại chặt nhỏ bỏ trong cối giã
để tìm, cùng chẳng thấy. Ông Phạm chí liền lấy hai thanh củi cọ nhau,
bỗng phát ra lửa. Ông chất củi lên đốt và bảo đứa nhỏ: Muốn tìm lửa phải
làm đúng cách này. Không nên chẻ củi, giã nát củi ra mà tìm.
“Này Bà-la-môn, ông cũng giống như thế. Chẳng có phương pháp nào đi
lột da người chết ra mà tìm thần thức. Ông không thể dựa vào việc hiện
trước mắt mà xem xét chúng sanh.
“Này Bà-la-môn, có những vị Tỳ-kheo, từ đầu đêm đến cuối đêm không
ngủ, tinh cần chuyên niệm đạo phẩm, lấy sức tam-muội mà tịnh tu thiên
nhãn. Rồi bằng năng lực thiên nhãn mà quán thấy chúng sanh chết chỗ này
sinh chỗ kia, chết chỗ kia sinh chỗ này, sống lâu hay chết yểu, nhan sắc
tốt hay xấu, tùy hành vi mà thọ báo ở cảnh giới tốt hay xấu, đều thấy
biết hết. Ông không nên vì lẽ con mắt thịt uế trược không nhìn thấy suốt
chỗ thú hướng của chúng sanh mà vội cho là không có.
“Này Bà-la-môn, do đó có thể biết, tất phải có thế giới khác vậy”.”
Tệ-tú nói:
“Tuy ngài dẫn dụ nói có thế giới khác, song theo chỗ tôi biết thì hẳn không có”.”
Ca-diếp hỏi:
“Ông còn có duyên cớ gì cho là không có thế giới khác?”
“Có”.”
“Duyên cớ gì?”
Bà-la-môn nói:
“Ở phong ấp của tôi, có kẻ làm giặc cướp, bị rình bắt được, đem đến
tôi và nói: Người này làm giặc, xin ông trị nó. Tôi liền sai tả hữu đem
người ấy ra cân. Người hầu vâng mạng, đem nó đi cân. Tôi lại bảo người
hầu: Ngươi mang người này đi giết từ từ, êm thấm, không làm hao tổn lấy
một chút da thịt. Người hầu vâng lệnh giết mà không để chút hao hụt. Tôi
sai tả hữu đem xác người ấy cân lại. Nó lại nặng hơn trước.
“Này Ca-diếp, thân người ấy khi sống, thần thức đang còn, nhan sắc
tốt tươi, còn nói năng được mà đem cân thì nhẹ. Đến khi chết, thần thức
đã mất, nhan sắc không còn tươi tốt, không nói năng được; mà đem cân thì
lại thấy nặng. Vì cớ đó nên tôi biết không có đời sau”.”
Ca-diếp nói:
“Tôi nay hỏi ông. Tùy ý trả lời.
“Ví như người cân sắt. Khi sắt còn nguội đem cân thì nặng. Sau đốt đỏ
đem cân lại nhẹ. Tại sao khi sắt nóng, mềm, có màu đỏ sáng mà nhẹ, khi
sắt nguội, cứng, không màu đỏ sáng mà lại nặng?”
Bà-la-môn nói:
“Sắt nóngchín có màu đỏ và mềm, nên nhẹ; sắt nguội không màu đỏ mà cứng, nên nặng”.”
Ca-diếp nói:
“Con người cũng thế. Khi sống có nhan sắc, mềm mại mà nhẹ. Khi chết
không nhan sắc, cứng đơ mà nặng. Do đây mà biết tất có thế giới khác”.”
Tệ-tú nói:
“Tuy ngài dẫn dụ nói có thế giới khác. Nhưng theo tôi biết thì không có thế giới khác”.”
Ca-diếp hỏi:
“Ông còn có duyên cớ gì mà cho là không có thế giới khác?”
“Có. Nguyên tôi có người bà con mắc bệnh nặng. Tôi đến thăm, bảo
người đỡ nằm nghiêng tay mặt. Người ấy liếc ngó, co duỗi, nói năng như
thường. Tôi lại bảo đỡ nằm nghiêng tay trái, người ấy cũng còn liếc ngó,
co duỗi, nói năng như thường. Rồi nó chết. Tôi lại bảo đỡ xác người ấy
nằm nghiêng tay mặt, tay trái, lật sấp, lật ngửữa, xem kỹ thì không thấy
người ấy co duỗi, liếc ngó, nói năng chi cả. Do đó tôi biết chắc không
có thế giới khác”.”
Ca-diếp nói:
“Người trí nhờ thí dụ mà được rõ. Ta sẽ dẫn ví dụ cho ông rõ.
“Xưa có một quốc độ không ai từng nghe tiếng tù và. Hôm nọ có người
thổi tù và giỏi, đến nước đó, đi vào trong một thôn nọ, cầm tù và thổi
ba tiếng rồi bỏ xuống đất. Khi ấy, trai gái trong thôn nghe tiếng lạ
kinh động, rủ nhau đến hỏi: Thứ tiếng gì mà trong trẻo hòa dịu như thế?
Người chủ chỉ vào tù và mà nói Tiếng của cái đó. Người trong thôn liền
lấy tay vỗ vào tù và, nói: Ngươi kêu lên, ngươi kêu lên. Nhưng tù và bặt
không kêu. Người chủ lại cầm tù và lên thổi thêm ba tiếng rồi bỏ xuống
đất. Người trong thôn nói: Cái thứ tiếng hay ho ta nghe khi nãy chẳng
phải do sức tù và làm, mà cần có tay, có miệng, có hơi thổi, nó mới kêu.
Con người cũng thế. Phải có thọ mạng, có thần thức và hơi thở mới co
duỗi, liếc ngó, nói năng được. Không thọ, không thức, không hơi thở
thời không thể co duỗi, liếc ngó, nói năng được”.”
Ca-diếp lại khuyên:
“Ông nên từ bỏ cái ác tà kiến đó. Chớ giữ nó suốt đời, chỉ có thêm khổ não”.”
Bà-la-môn nói:
“Tôi không thể bỏ được. Vì sao? Tôi từ sinh ra đến giờ đã tụng đọc, luyện tập kiên cố. Đâu có bỏ được”.”
Ca-diếp nói:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi nay sẽ dẫn ví dụ thêm cho ông rõ.
“Thuở xa xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân điêu tàn.
Trong nước có hai người, một anh trí và một anh ngu, bảo nhau: Tôi là
bạn anh. Chúng ta hãy cùng nhau ra ngoài thành bứt lúa mọc hoang về làm
của. Rồi họ cùng đi. Khi đến một xóm hoang, thấy có cây gai mọc đầy đất,
người trí bảo người ngu chung nhau lấy đem về, mỗi người mỗi gánh. Sau
đi ngang xóm trước, họ thấy có đám chỉ gai. Người trí nói: Chỉ gai này
đã làm thành, nhỏ và mịn, đáng lấy hơn. Người kia nói: Tôi đã lấy cây
gai bó buộc chặt chẽ rồi, không thể bỏ được. Người trí một mình lấy một
gánh nặng chỉ gai đem về. Họ cùng nhau đi, bỗng lại gặp có đám vải gai.
Người trí nói: Vải gai này đã làm thành, nhẹ và mịn đáng lấy hơn. Người
kia nói: Tôi đã lấy cây gai đó buộc chặt chẽ rồi, nay không bỏ
được. Người trí liền bỏ gánh chỉ gai mà lấy vải gai làm một gánh nặng.
Họ lại cùng nhau đi tới. Bỗng lại gặp đống bông gòn . Người trí nói:
Bông gòn có giá, nhẹ và mịn, đáng lấy hơn. Người kia nói: Tôi đã lấy cây
gai, bó buộc chắc chắn, gánh đi đã xa đường rồi nay không bỏ được.
Người trí một mình bỏ vải gai mà lấy bông gòn gánh đi. Lần lữa họ gặp
chỉ bông, gặp vải bông; rồi gặp đồng trắng, rồi gặp bạc, gặp vàng. Người
trí nói: Nếu không vàng ta hãy lấy bạc, không bạc ta hãy lấy đồng, hay
ta hãy lấy chỉ gai, nếu không chỉ gai ta mới lấy cây gai, nhưng nay tại
thôn này có nhiều vàng, là thứ quý hơn các bảo vật khác, ngươi nên bỏ
cây gai, ta sẽ bỏ bạc để chung nhau lấy vàng, mỗi người gánh lấy gánh
nặng đem về. Nhưng người kia nói: Tôi đã lấy cây gai bó buộc chắc chắn
gánh đi đã xa, nay không thể bỏ được. Ngươi muốn lấy vàng thì lấy, tùy
ý. Người trí liền bỏ bạc mà lấy vàng, gánh một gánh nặng đem về. Đến
nhà, bà con người trí vừa thấy bóng anh ta gánh nhiều vàng thì hoan hỷ
nghinh đón. Người trí thấy được bà con nghinh đón lại càng vui mừng hơn.
Người ngu gánh cây gai về, bà con trông thấy không chút vui mừng, không
thèm nghinh đón. Người ngu gánh gai cũng càng thêm buồn và hổỗ thẹn.
“Này Bà-la-môn, ông nên rời bỏ cái xu hướng ác tà kiến ấy đi, chớ để
suốt đời chuốc thêm khổ não. Như người gánh cây gai, cứ chấp chặt ý ngu,
không chịu lấy vàng, lại cứ gánh gai đem về, luống chịu lao nhọc, bà
con không vui, suốt đời nghèo cùng, tự mang thêm khổ sở”.”
Bà-la-môn đáp:
“Tôi không bao giờ bỏ kiến thức sẵn có của tôi được. Vì sao? Vì tôi
nhờ thứ kiến thức đó mà dạy vẽ cho nhiều người, đem lại nhiều ích lợi,
vua chúa tứ phương đều nghe danh tôi, đều biết rõ tôi là nhà học giả chủ
trương đoạn diệt cả rồi”.”
Ca-diếp lại nói:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi nay sẽ dẫn ví dụ thêm cho ông rõ.
“Thuở xa xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân đều điêu
tàn. Lúc đó có một đoàn buôn gồm một ngàn cỗ xe đi ngang qua nước đó. Vì
không đủ nước, thóc, củi và cỏ, thương chủ bèn nghĩ: Bọn ta đông người,
không thể tự lo đủ nước, thóc, củi và cỏ. Nay ta hãy chia đòàan thành
hai bộ phận. Một bộ phận lên đường trước. Người dẫn đạo của toán đi đầu
gặp một người thân thể to lớn, mắt đỏ, mặt đen, mình mẩẫy dính đầy bùn.
Trông thấy người ấy từ xa đi lại, người dẫn đầu toán bèn hỏi: Ông từ đâu
lại? Đáp: Tôi từ xóm phía trước lại. Lại hỏi: Chỗ đó có nhiều nước,
thóc, củi và cỏ không? Đáp: Chỗ ấy có rất nhiều nước, thóc, củi và cỏ,
không thiếu. Tôi giữa đường gặp mưa lớn. Chỗ ấy nước nhiều mà củi, cỏ
cũng nhiều. Lại bảo thương chủ: Trên xe các ông, nếu có thóc và cỏ, có
thể bỏ hết đi. Đằng kia dư dã, không cần chở nặng xe. Rồi thương chủ ấy
nói với các thương nhân rằng: Tôi có gặp một người thân thể to lớn, mắt
đỏ mặt đen, xoa bùn khắp mình, từ đàng xa đi lại, tôi hỏi: Ông từ đâu
lại? Thì người đó trả lời: “Từ thôn đàng trước kia lại”. Tôi hỏi: Ở thôn
đó có nước gạo củi cỏ nhiều không? Người đó trả lời: Thôn ấy giàu có,
nước gạo củi cỏ không thiếu. Lại bảo tôi: Tôi vừa đi giữa đường thì gặp
trời mưa lớn. Chỗ này có nhiều nước; và củi cỏ cũng nhiều. Rồi ông ta
lại bảo tôi: Nếu trên xe bọn người có chở thóc cỏ gì thì nên bỏ xuống
hết. Thôn kia giàu có, không cần chở xe nặng làm chi. Vậy các bạn nên bỏ
thóc cỏ đi cho nhẹ xe. Rồi như lời ấy, cả toán bỏ hết thóc cỏ xuống để
cho xe nhẹ đi mau tới. Đi như thế một ngày, chẳng thấy cỏ nước đâu.
Đi hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày cũng không thấy đâu. Bọn người
buôn phải khốn cùng nơi đầm vắng và bị ác quỷ bắt ăn thịt hết.
“Toán thứ hai tiếp tục lên đường. Người chủ buôn đi đầu, lại gặp một
người to lớn mắt đỏ, mặt đen, mình mẩy dính đầy bùn. Trông thấy người ấy
từ xa đi lại, người dẫn đầu hỏi: Ông từ đâu lại? Người kia đáp: Tôi từ
xóm trước lại. Lại hỏi: Chỗ đó có nhiều nước, thóc, củi và cỏ không?
Đáp: Chỗ ấy có rất nhiều. Rồi lại bảo thương chủ: Tôi ở giữa đường gặp
cơn mưa lớn. Chỗ ấy nước nhiều, cũng có nhiều củi, cỏ. Lại bảo thương
chủ: Trên xe các ông, nếu có thóc, cỏ thì có thể bỏ đi. Đằng kia dư dả;
không cần chở nặng xe làm gì. Khi ấy, thương chủ trở lại nói với mọi
người: Ta vừa đến phía trước, gặp một người; y nói với ta rằng: Trên xe
các ông, nếu có thóc cỏ thì có thể vứt bỏ hết đi. Đằng kia dư dã, không
cần chở nặng xe. Rồi thương chủ dặn: Thóc, cỏ; các ngươi hãy cẩn thận
chớ vất bỏ đi. Bao giờ được có cái mới rồi hãy bỏ. Vì sao? Cái mới, cái
cũ nối tiếp luôn mới mong qua khỏi bãi hoang. Cả đoàn buôn cứ chở xe
nặng mà đi. Đi được một ngày, chẳng thấy cỏ nước đâu. Đi hai ngày, ba
ngày đến bảy ngày cũng chẳng thấy đâu, chỉ thấy xương cốt ngổn ngang của
toán người đi trước bị quỷ bắt ăn thịt để lại.
“Này Bà-la-môn, người mặt đỏ mặt đen kia chính là quỷ La-sát. Những
người nghe theo lời nó, suốt đời chịu khổ, chẳng khác toán buôn đầâu vì
vô trí nghe theo người dẫn đường mà phải thiệt mạng. Những Sa-môn,
Bà-la-môn tinh tấn, trí tuệ, họ có dạy gì, ai nghe theo thời suốt đời
được an ổn như toán buôn sau, nhờ có trí nên khỏi bị tai nạn.
“Này Bà-la-môn, ông hãy bỏ thứ ác kiến đó đi, chớ để suốt đời chỉ chuốc thêm khổ não”.”
Bà-la-môn nói:
“Tôi không thể nào bỏ kiến thức đó được. Nếu có ai đến can tôi lắm, thì chỉ làm tôi phát giận chớ tôi quyết không bao giờ bỏ”.”
Ca-diếp tiếp:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà được rõ. Tôi sẽ dẫn ví dụ cho ông.
“Thuở xưa, có một quốc độ mà suốt biên cương nhân dân đều điêu tàn.
Lúc đó có một người thích nuôi heo. Nhân anh ta đi đến một thôn vắng,
thấy có nhiều phân khô, mới nghĩ thầm: Chỗ này nhiều phân, mà heo ta ở
nhà đang đói. Ta nên lấy cỏ gói phân này đội trên đầu đem về. Rồi anh ta
liền lấy cỏ gói phân đội đi. Bất ngờ giữa đường gặp cơn mưa lớn, nước
phân chảy xuống thấu gót chân. Mọi người thấy vậy chê anh ta điên cuồng:
Đồ phân dơ ấy, giả sử trời tạnh còn không nên đội thay, huống giữa lúc
trời mưa lại đội mà đi. Anh ta nổi giận mắng lại: Các ngươi là đồ ngu,
không biết heo ta ở nhà đang đói. Nếu các ngươi biết, chắc không nói ta
ngu.
“Này Tệ-tú! Ngươi nên bỏ thứ ác kiến đó đi, chớ giữ chặt sự ngu mê mà
suốt đời chịu khổ. Như người ngu kia đã đội phân mà đi, bị kẻ khác chê
trách, can ngăn, lại trở mắng người ta vô trí!”
Bà-la-môn nói với Ca-diếp:
“Các ngài nếu bảo làm lành được lên trời, chết hơn sống, sao các ngài
không lấy dao tự vẫn hoặc uống thuốc độc chết đi, hoặc trói tay chân
rồi gieo mình từ trên bờ cao? Nhưng nay thảy đều tham sống, không ai tự
sát cả. Như thể đủ biết chết không hơn sống!
Ca-diếp nói:
“Những kẻ có trí nhờ thí dụ mà mau rõ. Tôi nay sẽ dẫn ví dụ thêm cho ông rõ.
“Xưa ở thôn Tư-bà-hê này có một người Phạm chí, kỳ cựu trưởng lão,
tuổi đã một trăm hai mươi120, có hai người vợ, một người có con trước,
còn một người mới có thai. Phạm chí ấy không bao lâu thì chết. Con người
mẹ lớn nói với người mẹ nhỏ rằng: Bao nhiêu gia tài này đều về tôi cả,
bà không có phần”. Người mẹ nhỏ nói: Hãy chờ ít lâu để tôi sinh. Nếu là
con trai thì nó phải có một phần gia tài. Nếu là con gái, cậu cưới nó
thì sẽ có tiền”. Nhưng con của người vợ lớn cứ nằn nì ba lần đòi chia
gia tài cho được, người vợ nhỏ vẫn trả lời như trước. Con của người vợ
lớn bức ép mãi. Người vợ nhỏ bèn lấy dao tự mổ bụng mình để coi cho biết
con trai hay con gái.
“Này Bà-la-môn, người mẹ này tự sát, lại hại luôn đứa con trong bào
thai. Bàa-la-môn các ngươi cũng như thế, đã tự giết mình còn muốn giết
kẻ khác. Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn tinh cần tu thiện, đầy đủ giới đức mà
sống lâu ở đời thì đem lại nhiều ích lợi, an lạc cho nhân thiên.
“Nay tôi sẽ dẫn một ví dụ cuối cùng để cho ngươi rõ tai hại của ác kiến.
“Xưa ở thôn Tư-bà-hê này có hai tay nghề giỏi luyện trò chơi bi. Một
hôm họ đấu nghề với nhau, một người hơn cuộc. Người thua nói với người
hơn rằng: Thôi ngày nay nghỉ để ngày mai đấu lại. Người thua trở về nhà
lấy mấy hòn bi để chơi đem tẩm thuốc độc, phơi khô, ngày mai đem tới chỗ
người hơn đòi đấu nghề lại. Trước khi cùng chơi, người thua lấy một hòn
bi đã tẩm thuốc độc trao cho người hơn, người hơn lấy nuốt. Người thua
trao nữa, người hơn nuốt nữa, bị chất độc chạy, làm toàn thân run rẩẫy.
Bấy giờ người thua bèn mắng bằng một bài kệ:
Ta bôi thuốc vào bi,
Ngươi nuốt mà không hay.
Tiểu kỹ, hãy nuốt đi,
Về sau khắc tự biết.
“Này Bà-la-môn! Ngươi nên mau mau xả bỏ ác kiến đó đi, chớ để mê muội
mãi càng thêm khổ sở, như anh chàng làm trò kia nuốt độc vào mình mà
không biết!
Bấy giờ Bà-la-môn bạch Ca-diếp rằng:
“Tôn giả mới nói về dụ mặt trăng, tôi đã hiểu rồi. Tôi sở dĩ nhiều
phen không chịu, vì tôi muốn thấy chỗ trí tuệ biện tài của ngài để thêm
chắc lòng tin. Nay tôi xin tín thọ quy y Ca-diếp”.”
Ca-diếp đáp:
“Ông chớ quy y ta, mà nên quy y nơi Đấng Vô Thượng Tôn như ta đã quy y”.”
Tệ-tú hỏi:
“Không hiểu Đấng Vô Thượng Tôn mà ngài đã quy y nay ở đâu?”
Ca-diếp đáp:
“Ðức Thế Tôn thầy tôi đã diệt độ chưa bao lâu”. .”
Tệ-tú nói:
“Nếu Thế Tôn còn, dù xa gần tôi cũng tìm đến để tự thân nhìn thấy,
quy y lễ bái. Nay nghe Ca-diếp nói Như Lai đã diệt độ, vậy tôi xin quy y
Đức Như Lai diệt độ, quy y Phật pháp và chúng Tăng. Xin Ca-diếp cho tôi
được làm Ưu-bà-tắc ở trong Chánh pháp; từ nay về sau, tôi thề trọn đời
không giết, không trộm, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Nay tôi sẽ đại bố thí cho tất cả”.”
Ca-diếp nói:
“Nếu ông giết mổ chúng sanh, đánh đập tôi tớ để mở hội, đó không phải
ngươi làm phước thanh tịnh. Ví như trên chỗ đất cạn, sạn sỏi, gai mọc
nhiều, đem gieo giống vào tất không gặt được gì. Nếu ông giết mổ chúng
sanh, đánh đập tôi tớ để mở hội bố thí cho chúng tà kiến, đó không phải
là phước thanh tịnh. Nếu ông mở hội đại thí mà không sát hại chúng sanh,
không dùng roi gậy đánh đập tôi tớ, đem lòng hoan hỷ mở hội để thí cho
hạng người thanh tịnh thì ngươi sẽ thâu được phước lớn. Ví như chỗ ruộng
tốt, đúng mùa đem gieo giống tất được gặt nhiều”.”
“Này Ca-diếp, từ nay về sau tôi sẽ luôn luôn tịnh thí cho chúng Tăng, không để gián đoạn.
Lúc đó có một Phạm chí trẻ tên là Ma-đầu, đứng sau lưng Tệ-tú. Tệ-tú quay lại bảo:
“Nay ta muốn mở hội đại thí tất cả, ngươi hãy thay ta sắp đặt và phân xử.”
Phạm chí trẻ vâng lời Tệ-tú sắp đặt và phân xử. Khi sắp đặt xong, cất tiếng nói rằng:
“Nguyện cho ông Tệ-tú đời nay, đời sau chẳng được phúc báo gì cả”.”
Tệ-tú nghe được, kêu Phạm chí trẻ đến hỏi:
“Ngươi có nói nói như thế chăng?”
Phạm chí trẻ đáp:
“Đúng như vậy. Tôi thật có nói như vậy. Bởi vì các thức ăn thô kém
như vầy nay ngài bày dọn để thí chúng Tăng, nếu thử đem cho ngài, ngài
còn không thèm sờ tay tới huống là lấy ăn. Những thứ được dọn bày hiện
tại không thể vui mắt đẹp lòng làm sao đời sau có được quả báo thanh
tịnh. Ngài bố thí y phục cho chúng Tăng mà thí toàn vải gai, nếu thử đem
nó cho ngài, ngài còn không lấy chân sờ tới huống hồ lấy mặc. Những thứ
được dọn bày hiện tại không thể vui mắt đẹp lòng làm sao đời sau có
được quả báo thanh tịnh”.”
Khi ấy Bà-la-môn lại bảo Phạm chí:
“Từ nay về sau ngươi hãy lấy thứ vật ta ăn, thứ áo ta mặc mà bố thí
chúng Tăng”. Phạm chí trẻ vâng lời làm theo lấy thứ vật mà vua ăn, thứ
áo vua mặc mà bố thí chúng Tăng.
Bà-la-môn khi thiết tịnh thí này, thân hoại mạng chung sinh lên một
cõi trời hạ liệt. Phạm chí trẻ trông nom mở hội thì sau khi chết lại
được sinh lên cõi trời Đao-lợi.
Bấy giờ, Bà-la-môn Tệ-tú, Phạm chí trẻ và chúng Bà-la-môn, Cư sĩ
trong thôn Tư-bà-hê, sau khi nghe những điều Đồng nữ Ca-diếp thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-